Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hiệu ứng Kerr”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 18 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q883038 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
'''Hiệu ứng Kerr''' (còn gọi là '''hiệu ứng điện quang bậc hai''') là một [[hiệu ứng vật lý]] xảy ra trên một số [[vật liệu]] [[trong suốt]], trong đó [[chiết suất]] thay đổi dưới tác động của [[điện trường]] bên ngoài. Khác với [[hiệu ứng Pockels]], sự thay đổi của chiết suất trong hiệu ứng Kerr [[tỉ lệ thuận|tỷ lệ thuận]] với [[bình phương]] của [[cường độ điện trường]] ngoài. Hiệu ứng này được tìm thấy vào năm [[1875]] bởi [[John Kerr (nhà vật lý)|John Kerr]], một [[nhà vật lý]] người Scotland.
 
Có hai trường hợp của hiệu ứng Kerr hay được nhắc đến: hiệu ứng Kerr DC và hiệu ứng Kerr AC.
Dòng 9:
 
[[Tập tin:Waveplate.png|nhỏ|350px|Tế bào Kerr hoạt động như một [[bộ trễ sóng]].]]
Hiện tượng này hay được ứng dụng trong [[tế bào Kerr]], trong đó một mẩu vật liệu hình khối hộp đặt trong điện trường theo một phương và [[ánh sáng]] được chiếu theo phương vuông góc với điện trường. Khi đó tế bào Kerr hoạt động như một [[bộ trễ sóng]] [[waveplate]]. Nếu hệ thống đặt giữa hai [[kính lọc phân cực]] có phương phân cực vuông góc với nhau thì, khi không có điện trường, sẽ không có ánh sáng đi ra khỏi hệ thống. Khi điện trường với giá trị phù hợp được đặt vào, chiết suất theo phương điện trường khác với phương vuông góc với nó, làm cho ánh sáng phân cực theo phương điện trường lan truyền trong vật liệu với [[tốc độ]] khác với ánh sáng phân cực theo phương vuông góc với điện trường. Khi ló ra khỏi vật liệu, ánh sáng phân cực theo phương điện trường sẽ bị lệch pha với ánh sáng phân cực theo phương vuông góc, và [[phân cực|trạng thái phân cực]] không còn như cũ, và do đó có thành phàn ánh sáng ló ra được khỏi hệ thống. Như vậy tế bào Kerr hoạt động như một công tắc bật tắt ánh sáng, điều khiển hoàn toàn bằng điện trường.
[[Tập tin:Kerr cell.svg|nhỏ|350px|Cấu trúc một tế bào Kerr, gồm hộp thủy tinh A đựng chất lỏng có hệ số Kerr cao B, nằm giữa các điện cực D và C]]
Một số [[chất lỏng]], như C<sub>7</sub>H<sub>7</sub>NO<sub>2</sub> hay C<sub>6</sub>H<sub>5</sub>NO<sub>2</sub>, có hệ số Kerr cao và có thể dùng trong các tế bào Kerr. Ưu điểm của hệ thống là tần số hoạt động cao, có thể bật tắt ánh sáng ở tần số lên tới 10&nbsp;[[giga|G]][[hertz|Hz]]. Nhược điểm của tế bào Kerr, so với [[tế bào Pockels]], là nó đòi hỏi điện trường rất lớn. Một nhược điểm nữa là C<sub>6</sub>H<sub>5</sub>NO<sub>2</sub> là [[chất độc]].