Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Quang Bí”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Thay thể loại đã đổi hướng Thiếu năm mất bằng Năm mất thiếu; sửa cách trình bày
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
'''Lê Quang Bí''' ([[1506]] - ?) là quan [[nhà Mạc]] trong [[lịch sử Việt Nam]] và là [[nhà thơ]] Việt Nam. Ông người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh [[Hải Dương]], [[Việt Nam]]; nguyên quán lại ở xã Lão Loạt, huyện Thuận Hựu, nay thuộc huyện [[Hậu Lộc]], tỉnh [[Thanh Hóa|Thanh Hoá]].
 
==Tiểu sử==
Dòng 12:
 
==Sứ thần nhà Mạc==
[[Mạc Đăng Dung]] thay ngôi [[nhà Lê sơ|nhà Lê]], lập ra [[nhà Mạc]]. Lê Quang Bí theo giúp nhà Mạc. Được 6 năm (1533), cựu thần nhà Lê là [[Nguyễn Kim]] khởi binh khôi phục nhà Lê. Cả nhà Lê và nhà Mạc đều tranh thủ sự ủng hộ, thừa nhận của [[nhà Minh]] nên ngoài mặt trận chiến tranh trong nước, mặt trận ngoại giao với nhà Minh kéo dài dai dẳng nhiều năm về vấn đề này.
 
Thời [[Mạc Tuyên Tông]], năm Mậu Thân, niên hiệu Cảnh Lịch thứ nhất (1548), Mạc Tuyên Tông cử Lê Tiến Quy làm Chánh sứ và Lê Quang Bí làm phó sứ, sang sứ [[nhà Minh]] cầu phong.
Dòng 24:
Năm 1563, quan quân [[Lưỡng Quảng]] nhà Minh mới sai người đưa Lê Quang Bí tới [[Bắc Kinh]] triều kiến vua Minh. Nhân dịp vua mới là Mạc Mậu Hợp cũng sai hầu mệnh gửi cho ông 25 lạng bạc để thưởng lạo. Khi Lê Quang Bí tới [[Bắc Kinh]], lại bị lưu ở sứ quán thêm vài năm nữa.
 
Năm 1566, viên Đại học sĩ triều Minh là Lý Xuân Phương thương Quang Bí ở trong nước nhà Minh đã 18 năm, bị giữ lâu ở công quán mà vẫn giữ được mệnh chúa, nên tâu lên vua Minh nhận cống phẩm và cho ông về. Vua mới nhà Minh là Mục Tông bằng lòng theo lời của Xuân Phương, cho ông trở về nước. Người Minh ví ông như [[Tô Vũ]] đi sứ đến lúc bạc đầu mới được trở về<ref>Tô Vũ phụng mệnh nhà Hán đi sứ Hung Nô, cũng bị Hung Nô giữ lại 19 năm, sai đi chăn dê. Mãi sau khi nhà Hán cho Vương Chiêu Quân sang làm vợ vua Hung Nô (''[[Vương Chiêu Quân|Chiêu Quân]] cống Hồ''), Tô Vũ mới được trở về Hán. Tấm gương trung thành với nhà Hán của Tô Vũ rất nổi tiếng trong lịch sử</ref>
 
Trong suốt 18 năm đi sứ bị giam giữ, Lê Quang Bí vẫn luôn giữ gìn phẩm hạnh và kỷ cương phép nước, không làm ô danh nước Đại Việt.
 
Ngày 25 tháng Giêng năm Bính Dần, niên hiệu Sùng Khang thứ nhất đời Mạc Hậu Hợp (1566), ông trở về nước. Mạc Mậu Hợp di cư ra hành quán ở [[Bồ đề (định hướng)|Bồ Đề]] (Gia Lâm), sai Lại Bộ thượng thư kiêm Đông Các đại học sĩ Kế Khê bá [[Giáp Hải]] và Đông các hiệu thư Phạm Duy Quyết lên tận đầu địa giới [[Lạng Sơn]] để đón sứ thần Lê Quang Bí. Lúc được cử đi sứ, Lê Quang Bí mới 43 tuổi, tóc còn xanh mà lúc trở về nước, ông đã 61 tuổi, đầu tóc đã bạc trắng.
 
Về đến tổ quốc, Lê Quang Bí được Mạc Hậu Hợp phong cho chức thượng thư, lại phong cho tước ''Tô quận công'', ví ông với vị trung thần Tô Vũ [[nhà Hán]].
 
==Tập thơ ''Tô công phụng sứ''==
Tương truyền trong thời gian bị giữ lại ở Nam Ninh, Lê Quang Bí còn sáng tác tập thơ “Tô Công Phụng sứ”, gồm 24 bài [[đường luật|thơ Đường luật]], thuật lại chuyện Tô Vũ đời nhà Hán đi sứ sang [[Hung Nô]], để gửi gắm tâm sự của mình.
 
Ngoài ra, ông còn một tập thơ khác, gồm một số bài thơ trong cuốn “Tư lương vận lục”, viết theo đề tài lịch sử và hoài cổ.