Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lòng chảo Tarim”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 34 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q216622 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
[[Tập tin:KunlunMountains.jpg|nhỏ|phải|400px|Sa mạc Taklamakan trong '''lòng chảo Tarim'''.]]
 
'''Lòng chảo Tarim''', ([[tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]]: 塔里木盆地, Hán-Việt: Tháp Lí Mộc bồn địa) là một trong số các [[lòng chảo khép kín]] lớn nhất trên thế giới có diện tích bề mặt khoảng 400.000 km², nằm giữa vài dãy núi trong Khu tự trị [[Người Uyghur|Duy Ngô Nhĩ]] [[Tân Cương]] ở miền viễn tây [[Trung Quốc]]. Phần lớn của lòng chảo là sa mạc [[Sa mạc Taklamakan|Taklamakan]]. Khu vực này có dân cư rất thưa thớt, chủ yếu là người Duy Ngô Nhĩ và các dân tộc Trung Á khác, cũng như là [[người Hán]], phần nhiều trong số họ là những người nhập cư gần đây.
 
[[Con đường tơ lụa]] trong lòng chảo Tarim nằm giữa [[Kashgar|Khách Thập]] (Kashgar) ({{coor dm|39|28|N|76|03|E|}}) và [[Ngọc Môn]] (Yumen) ({{coor dm|39|50|N|97|34|E|region:CN_type:city(100.000)}}) và được chia thành hai lộ trình, men theo các rìa phía bắc và phía nam của [[sa mạc Taklamakan]]. Các thành thị dọc theo mỗi nhánh, tính từ tây sang đông là:
* Lộ trình phía bắc:
** [[Aksu|A Khắc Tô]] (Aksu) (41°10′vĩ bắc, 80°15′kinh đông)
** [[Kuchar|Khố Xa]] (Kucha) (41°39′vĩ bắc, 82°54′kinh đông)
** [[Korla|Khố Nhĩ Lặc]] (Korla) (41°39′vĩ bắc, 86°08′kinh đông)
** [[Turfan|Thổ Lỗ Phan]] (Turfan) (42°59′vĩ bắc, 89°11′kinh đông)
** [[Lâu Lan]] (Loulan) (40°55′vĩ bắc, 89°9′kinh đông)
* Lộ trình phía nam:
** [[Yarkand|Toa Xa]] (Yarkand) (37°52′vĩ bắc, 77°24′kinh đông)
** [[Bì Sơn]] (Pishan) (37°37′vĩ bắc, 78°18′kinh đông)
** [[Hòa Điền]] (Khotan) (37°6′vĩ bắc, 80°1′kinh đông)
Dòng 18:
* "Lộ trình trung tâm": Đã bị bỏ hoang từ [[thế kỷ 6]])
 
Trước đây thì các thứ tiếng trong [[tiếng Tochari|ngôn ngữ Tochari]] được người dân sử dụng trong khu vực lòng chảo Tarim. Đây là các thứ tiếng xa nhất về phía đông của [[hệ ngôn ngữ Ấn-Âu|ngữ hệ Ấn-Âu]]. Tên gọi trong tiếng Trung "[[Nguyệt Chi]]" (月氏; Wade-Giles: Yüeh-Chih) đã dùng để chỉ những người Trung Á cổ đại sống trong khu vực [[Cam Túc]] ngày nay, những người này đã bị người [[Hung Nô]] xua đuổi, sau này họ di cư về phía lòng chảo Tarim và về phía nam để lập ra [[Đế quốc Quý Sương|Vương triều Quý Sương]] tại miền bắc Ấn Độ.
 
Người Hán dưới sự chỉ huy của một viên tướng giỏi là [[Ban Siêu]] (32-102) đã giành được sự kiểm soát khu vực lòng chảo Tarim từ tay người Hung Nô vào cuối [[thế kỷ 1]].
Dòng 28:
[[Tập tin:Wfm tarim basin.jpg|nhỏ|phải|250px|Ảnh chụp lòng chảo Tarim từ vệ tinh của NASA]]
 
Lòng chảo Tarim được cho là có chứa các bể [[dầu mỏ]] và [[khí thiên nhiên|khí tự nhiên]] lớn.
 
Một điều đáng chú ý là tuyết trên [[đỉnh K2]] (trong tiếng Trung gọi là 乔戈里峰, Hán-Việt: Kiều Qua Lý Phong), đỉnh cao thứ hai trên thế giới sau Everest, chảy xuống thành các dòng sông băng, chúng di chuyển xuống các thung lũng thấp và tan chảy để tạo thành nước sông, con sông này uốn khúc trong các dãy núi để cuối cùng đổ vào lòng chảo Tarim. Ở đoạn giữa sa mạc, những nguồn nước này tạo nên các ốc đảo và được bơm lên để phục vụ nông nghiệp và con người, cuối cùng sau khi đã chảy trên một khoảng cách lớn thì chúng hóa thành các hồ và đầm lầy nước mặn và bốc hơi.
 
==Xem thêm==
* [[Địa lí Trung Quốc|Địa lý Trung Quốc]]
* [[Kara-Khanid|Hãn quốc Kara-Khanid]]
* [[Dãy núi Côn Lôn]]
* [[Xác ướp Tarim]]