Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Đế quốc La Mã”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 5 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q2671119 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 2:
Lịch sử của '''Đế chế La Mã''' (hoặc [[Đế quốc La Mã]], [[tiếng Anh]]: Roman Empire) trải dài qua 16 thế kỷ, được xem như bắt đầu từ năm 27 TCN với sự lên ngôi của hoàng đế Augustus<ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/507739/Roman-Empire "Roman Empire – Britannica Online Encyclopedia"]</ref> và có nhiều mốc kết thúc khác nhau, bao gồm sự phân chia cuối cùng thành Tây La Mã và Đông La Mã vào năm 395,<ref>Chester G. Starr, A History of the Ancient World, Second Edition. Oxford University Press, 1974. pp. 670–678</ref> sự diệt vong của [[Đế quốc Tây La Mã]] vào năm 476<ref>Isaac Asimov. Asimov's Chronology of the World. Harper Collins, 1989. trang 110,</ref> và cuối cùng là sự diệt vong của [[Đế quốc Đông La Mã]] vào năm 1453.<ref>Isaac Asimov. Asimov's Chronology of the World. Harper Collins, 1989. trang 198</ref>
 
Lịch sử của Đế chế La Mã bao gồm nhiều giai đoạn phát triển của nhà nước La Mã. Nó bao gồm Đế chế La Mã cổ đại, thời kỳ bị chia làm Đế quốc Tây La Mã và Đế quốc Đông La Mã, và lịch sử của Đế quốc Đông La Mã (còn gọi là [[Đế quốc Đông La Mã|Đế chế Byzantine]]) trong [[trung Cổ|thời Trung cổ]].
 
Hoàng đế La Mã là những người đứng đầu đế chế. Người La Mã không dùng chính xác một từ cụ thể để chỉ danh hiệu này. Có những từ được dùng là imperator, augustus, caesar và princeps đều có nghĩa tương đương với hoàng đế. Nói chung, dù mang danh hiệu nào thì hoàng đế La Mã cũng là nhà lãnh đạo tối cao của La Mã và nắm trong tay quân đoàn La Mã.
Dòng 12:
Vào cuối thời [[Cộng hòa La Mã]], [[Julius Caesar]] nổi lên, giành nhiều thắng lợi trong các trận chiến bên ngoài và tiêu diệt các đối thủ chính trị của mình. Ông tiến lên nắm quyền lực to lớn cả về chính trị lẫn quân sự. Sự tập trung quyền lực vào tay Caesar đã làm lung lay thể chế Cộng hòa.
 
Sau khi Caesar bị ám sát vào năm 44 TCN, đã có một cuộc nội chiến xảy ra trong những năm tiếp theo. Cuối cùng, [[Augustus|Octavian]] (người được Caesar chỉ định thừa kế mình) đã giành chiến thắng trước mọi đối thủ. Trong đó đáng chú ý nhất là năm 31 TCN ông đã đánh bại hoàn toàn [[Marcus Antonius|Mark Antony]] và [[Cleopatra VII|Cleopatra]] trong [[trận Actium]]. Octavian cũng cho xử tử con trai của Cleopatra là [[Caesarion]] (người có thể là đứa con trai duy nhất của Caesar).
 
Không còn đối thủ chính trị nào ngáng đường, Octavian trở về [[Roma|kinh thành La Mã]] để nắm quyền. Năm 27 TCN, ông được Viện nguyên lão tôn lên thành [[Augustus]] (mang nghĩa: người ở địa vị tối cao hoặc thiêng liêng). Ông trở thành vị hoàng đế La Mã đầu tiên và thời đại Cộng hòa La Mã cũng chấm dứt từ năm này.
Dòng 18:
==Thời đại thịnh trị của Augustus (27 TCN-14)==
[[Tập tin:Statue-Augustus.jpg|phải|nhỏ|200px|Tượng Augustus ở Prima Porta]]
Octavian hiểu rằng sự chuyên quyền và chế độ quân chủ là những thứ không hề được người La Mã ưa thích. Những nhà cai trị độc tài trong thời Cộng hòa đều không nắm quyền được lâu và sự kiện ám sát Julius Caesar vẫn còn đó để cảnh tỉnh Octavian. Octavian không muốn bị xem như một tên bạo chúa chuyên quyền, vì vậy mà ông tìm cách hợp pháp hóa địa vị của mình thông qua Viện nguyên lão. Vào năm 27 TCN, Octavian tuyên bố trao trả quyền hành của mình về tay Viện nguyên lão<ref>Abbott, 267</ref> một cách rất có tính toán. Viện nguyên lão, lúc đó gồm toàn những người ủng hộ ông và được ông dàn xếp trước, đã từ chối và khẩn cầu ông ở lại. Octavian chấp thuận và trở thành Augustus.<ref>Abbott, 268</ref> Một thỏa thuận được xác lập giữa Viện nguyên lão và Augustus, thường gọi là [[Thỏa thuận thứ nhất]], trao cho ông quyền hợp pháp để cai trị mọi người. Augustus đã đạt được thứ mình cần, và từ đây mở ra thời đại thịnh trị [[Thái bình La Mã|Pax Romana]] của La Mã. Ông thường được xem như vị hoàng đế vĩ đại nhất của Đế chế La Mã và đã đặt những nền móng vững chắc cho sự phát triển qua hàng thế kỷ của nó.
 
Ở trong nước, Augustus bắt đầu cải tổ trên diện rộng về quân sự, chính trị và tài chính. Những cải cách của ông giúp làm dịu đi tình hình căng thẳng của Đế chế La Mã và củng cố chế độ mới. Về mặt quân sự, các [[lê dương La Mã|quân đoàn La Mã]], vốn đạt tới con số cao chưa từng có (khoảng 50) vì những cuộc nội chiến, được Augustus giảm xuống còn 28. Các quân đoàn có những kẻ mà lòng trung thành bị đặt nghi vấn đều bị giải tán và nhiều quân đoàn bị trộn lẫn vào nhau. Augustus cũng tạo ra 8 đội quân đặc biệt để gìn giữ hòa bình ở Italia, và để 3 đội trong số đó ở kinh đô La Mã. Những đội quân này được gọi là [[Đội vệ sĩ của Hoàng đế La Mã]] (tiếng Anh: Praetorian Guard). Về mặt chính trị, cái vỏ Cộng hòa vẫn còn, nhưng thực tế thì quyền lực chủ yếu nằm trong tay ông. Về hành chính, Augustus chia sẻ quyền đề cử thống đốc các tỉnh với Viện nguyên lão. Các tỉnh khó kiểm soát ở biên giới sẽ được điều hành bởi những người do ông chọn (được gọi là [[các tỉnh của hoàng đế]]). Các tỉnh yên bình hơn thì thống đốc sẽ do Viện nguyên lão quyết định (được gọi là [[các tỉnh của Viện nguyên lão]])
 
Về mặt tài chính, trước khi Viện nguyên lão kiểm soát ngân khố, Augustus định ra rằng tiền thuế từ các tỉnh của hoàng đế sẽ được chuyển vào [[Fiscus]] (một ngân khố riêng của hoàng đế). Điều này khiến Augustus trở nên giàu hơn cả Viện nguyên lão và dư dả tiền bạc để đảm bảo sự trung thành của binh lính. Trong số các tỉnh của hoàng đế, đặc biệt có [[Ai Cập]] là một vùng rất trù phú, và các thành viên Viện nguyên lão thậm chí còn không được phép tới đây. Vào năm 23 TCN, Augustus xác lập [[Thỏa thuận thứ hai]] giữa ông và Viện nguyên lão, về danh nghĩa thì địa vị của ông có thay đổi, nhưng quyền lực thì vẫn to lớn như trước. Vinh quang của ông lớn đến mức người ta đổi tên tháng 8 để vinh danh ông (August).
 
Ở bên ngoài, Augustus hoàn tất cuộc chinh phục Hispania và một số viên tướng giúp lãnh thổ Đế chế mở rộng hơn ở [[Bắc Phi]] và [[Tiểu Á]]. Ông cũng tiến hành những cuộc xâm lược vào [[Illrya]], [[Moesia]], [[Pannonia]] (phía Nam sông Danube) và [[Germania]] (phía Tây [[elbe|sông Elbe]]). Lúc đầu mọi chuyện thuận lợi nhưng rồi người Illyria nổi dậy và 3 quân đoàn La Mã bị các tộc [[Các dân tộc German|người German]] do [[Arminius]] chỉ huy diệt sạch trong [[trận rừng Teutoburg]] vào năm 9 sau CN,<ref>Goldsworthy, In the Name of Rome, p. 245,</ref> khiến đà tiến của đế chế bị chặn lại ở đây. Augustus không liều lĩnh tiến quân thêm nữa mà chỉ giữ chặt các vùng bờ tây sông Rhine và tiến hành những cuộc cướp phá trả đũa. Từ đó về sau, [[rhine|sông Rhine]] và [[sông Donau|sông Danube]] trở thành biên giới của Đế chế La Mã ở phía Bắc.
 
==Vương triều Julio-Claudia (14-68)==
Dòng 42:
 
====Claudius (41-54)====
Claudius là em của Germanicus và trước đây luôn bị coi là một kẻ ngu ngốc và có thể trạng yếu đuối.<ref>Seneca Apocolo. 5, 6.</ref> Thế nhưng ông là một nhà cai trị giỏi, không bị hoang tưởng như Tiberius hay điên loạn như Caligula. Ông cải tiến hệ thống hành chính và giải quyết các vấn đề liên quan tới công dân và Viện nguyên lão. Dưới thời Claudius, lãnh thổ của Đế chế được mở rộng đáng kế với sự sáp nhập các tỉnh [[Thracia|Thrace]], [[Noricum]], [[Pamphylia]], [[Lycia]], [[Judea]] và [[Mauretania]],<ref>Pliny 5.1–5.2, Cassius Dio, 60.8, 60.9</ref> cùng cuộc chinh phục xa nhất là tới đảo Anh vào năm 43.<ref>Scramuzza, Chap. 9</ref> Claudius cũng cho tổ chức lại các tỉnh phía đông của đế chế và xây một cảng ở [[Ostia Antica]], giúp ngũ cốc có thể chuyển về kinh thành La Mã trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
 
Thế nhưng Claudius lại thất bại trong đời sống gia đình. Vợ ông là Hoàng hậu dâm đãng [[Messalina]] phản bội ông và bị xử tử.<ref>Farquhar, Michael (2001). ''A Treasure of Royal Scandals'', p.212. Penguin Books, New York. ISBN 0739420259.</ref> Sau đó ông cưới cháu mình là [[Julia Agrippina|Agrippina Trẻ]] (em gái của Caligula), và có thể chính người phụ nữ này đã đầu độc ông vào năm 54,<ref>Tacitus, ''Annals'' [[wikisource:The Annals (Tacitus)/Book 12#66|XII.66]]; Cassius Dio, ''Roman History'' [http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/Cassius_Dio/61*.html#34 LXI.34]; Suetonius, ''The Lives of Twelve Caesars'', Life of Claudius [http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/Suetonius/12Caesars/Claudius*.html#44 44]; Josephus is less sure, Josephus, ''Antiquities of the Jews'' [[wikisource:The Antiquities of the Jews/Book XX#Chapter 8|XX.8.1]].</ref> mở đường cho con trai của bà ta là Lucius Domitius Nero lên ngôi hoàng đế (Nero không phải là con của Claudius mà là con riêng của của Agrippina với chồng trước là [[Gnaeus Domitius Ahenobarbus]]).
Dòng 50:
[[Nero]] chú trọng vào ngoại giao, thương mại, và đóng góp nhiều vào văn hóa. Ông cho xây nhiều nhà hát và khuyến khích các trò mua vui trong đấu trường. Điều này làm người dân thành La Mã rất yêu thích ông, mặc dù thực sự thì ông là một bạo chúa.
 
Triều đại của Nero được đánh dấu bằng một chiến thắng quân sự và sau đó là hòa ước với [[Đế quốc Parthia|Đế chế Parthia]] (58–63),<ref name="cassiusdio-lxii-23">Cassius Dio, ''Roman History'' [http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/Cassius_Dio/62*.html#23 LXII.23].</ref> một cuộc nổi loạn bị dập tắt (60-61),<ref>Tacitus, ''Annals'' [[wikisource:The Annals (Tacitus)/Book 14#31|XIV.31–38]].</ref> và việc thắt chặt sự liên hệ với văn hóa Hy Lạp.<ref name="annals-xiv-20">Tacitus, ''Annals'' [[wikisource:The Annals (Tacitus)/Book 14#20|XIV.20]].</ref> Thế nhưng Nero lại là kẻ tự cao tự đại và luôn căng thẳng với mẹ mình (cuối cùng ám sát bà vào năm 59).<ref>Tacitus, "The Annals".</ref> Ông cũng luôn tìm cách đàn áp những người theo [[Thiên Chúa giáo]], thường đổ tội cho họ là thủ phạm gây ra những bất ổn trong chế độ của mình.
 
Nhiều nhà sử học cho rằng chính Nero đã hạ lệnh đốt kinh thành La Mã trong [[Đại hỏa hoạn thành Roma|vụ cháy nổi tiếng năm 64]] để lấy chỗ xây dựng những công trình của mình.<ref name="Tacitus Annals XV.44">Tacitus Annals XV.44.</ref> Một trong những lý do khiến người ta nghĩ vậy là việc Nero tin mình là một vị thần và xây một cung điện tráng lệ cho ông ta ([[Domus Aurea]]) ngay trên đống đổ nát sau vụ cháy.<ref>Tacitus, Annals XV.42.</ref> Nero cũng nhân cơ hội này để vu tội phóng hỏa cho các tín đồ Thiên chúa giáo và bức hại họ.<ref name="Tacitus Annals XV.44"/>
Dòng 59:
[[Tập tin:Roman Empire 69AD.PNG|nhỏ|phải|340px|Đế chế La Mã vào năm 69. Sau cái chết của Nero, bốn vị tướng hùng mạnh nhất trong Đế chế đã thay nhau chiếm giữ ngôi vị]]
{{bài chính|Năm của bốn hoàng đế}}
Cái chết của Nero dẫn đến một cuộc chiến giành ngôi. Đây là lần đầu tiên La Mã có một cuộc nội chiến kể từ sau cái chết của Mark Anthony vào năm 31 TCN. Bốn vị tướng hùng mạnh từ bốn vùng của Đế chế đã lần lượt đấu đá với nhau để lên ngôi. Từ tháng 6 năm 68 đến tháng 12 năm 69, kinh thành La Mã đã lần lượt chứng kiến sự thăng trầm của [[Galba]], [[Otho]] và [[Vitellius]], cho đến khi [[Vespasianus|Vespasian]] khởi đầu [[vương triều Flavia]]. Giai đoạn này được xem như ví dụ tiêu biểu cho sự bất an chính trị trong lịch sử Đế chế La Mã, nó chứng tỏ rằng bất cứ vị tướng nào cũng có thể tranh giành ngai vàng, nếu đủ mạnh.<ref>Abbott, 298</ref>
 
Đầu tiên, Galba (được các quân đoàn ở Tây Ban Nha hậu thuẫn) đã tiến vào thành La Mã vào tháng 6/68 và nắm quyền tới tháng 1/69 thì bị ám sát. Otho lên ngôi, nhưng sau khi để thua [[trận Bedriacum]] trước đối thủ của mình là Vitellius (được các quân đoàn German hậu thuẫn) thì ông đã tự sát. Vitellius tại vị từ tháng 4/69, nhưng rồi tới lượt ông cũng bị ám sát vào tháng 12/69. Cuối cùng, Vespasian (được các quân đoàn ở phần đông của Đế chế hậu thuẫn) lên ngôi và chấm dứt cuộc nội chiến.<ref>Luttwak, The Grand Strategy of the Roman Empire, trang 52</ref>
Dòng 73:
Về chính trị, Vespasian là vị hoàng đế cai trị có hiệu lực ở các tỉnh. Ở phía tây, ông ưu ái xứ [[Hispania]] ([[bán đảo Iberia]]), trao [[quyền La tinh]] (một mức trung gian giữa quyền công dân La Mã đầy đủ và không có quyền công dân La Mã) cho hơn 300 thành thị, tạo ra một kỷ nguyên mới cho việc đô thị hóa ở những tỉnh từng một thời là man tộc. Nhờ vào những cải cách của ông ở Viện nguyên lão mà các tỉnh của Viện nguyên lão có tầm ảnh hưởng lớn hơn, và vì vậy giúp Đế chế hợp nhất hơn.
 
Về quân sự, vấn đề tồn đọng lớn nhất sau cuộc nội chiến là việc cát cứ ở địa phương, nghĩa là quân đoàn ở tỉnh nào thì hành động chỉ vì quyền lợi cho tỉnh đó. Nguyên do của việc này là bởi trước đây, các đơn vị quân sĩ được tuyển mộ ở đâu thì cũng phục vụ ngay tại địa phương đó. Vespasian chấm dứt chuyện này bằng cách trộn lẫn các đơn vị quân đội địa phương với những binh sĩ từ các vùng khác, hoặc chuyển luôn đơn vị đó đi tới nơi khác. Ở biên giới, thay vì tập trung các quân đoàn thì ông chia nhỏ họ ra để tránh nguy cơ làm phản. Cải cách quan trọng nhất của Vespasian có lẽ là việc ông cho phép những người từ [[Gallia|Gaul]] và Hispania tham gia vào quân đoàn La Mã, thay vì chỉ tuyển người Italy như trước. Ông cũng có những hoạt động để củng cố hệ thống phòng ngự ở biên giới của đế chế.
 
===Titus (79-81)===
Dòng 79:
 
===Domitian (81-96)===
Em trai của Titus là [[Domitianus (Hoàng đế)|Domitian]] lên nối ngôi. Mặc dù Vespasian và Titus đều đã có quan hệ không tốt với Viện nguyên lão, ở thời Domitian mối quan hệ đó thậm chí còn trở nên căng thẳng hơn. Ông thẳng thừng dẹp bỏ cái vỏ Cộng hòa mà cha và anh mình còn cố ngụy trang, thậm chí là thường xuyên xuất hiện với trang phục quân đội.
 
Đối với dân chúng, Domitian rất biết cách xử sự. Ông trao những tặng phẩm cho mọi công dân thành La Mã, tổ chức những trò mua vui ở đấu trường và tiếp tục các công trình công cộng của đời trước. Ông cũng để lại cho những người kế vị một ngân khố đầy ắp. Ở bên ngoài, dưới thời Domitian, quân đội La Mã đã tấn công [[Caledonia]] (nay là [[Scotland]]) và [[Dacia]] (bao gồm [[Romania]] và [[Moldova]] ngày nay). Mặc dù giành được một vài thắng lợi nhưng họ không chinh phục hoàn toàn được những nơi này.
Dòng 86:
 
==Năm vị minh quân (96-180)==
Thế kỷ tiếp theo được gọi là thời kỳ "Năm vị minh quân" vì sự nối ngôi diễn ra êm đẹp và Đế chế hưng thịnh. Năm hoàng đế trong giai đoạn này là [[Nerva]] (96–98), [[Traianus|Trajan]] (98–117), [[Hadrianus|Hadrian]] (117–138), [[Antoninus Pius]] (138–161) và [[Marcus Aurelius]] (161–180), lần lượt từng người được vị hoàng đế trước mình nhận làm con nuôi. Mặc dù những người kế vị được chọn lựa vì phẩm chất của họ, có nhiều người tranh luận rằng lý do thật sự của chuyện này là việc chẳng ai trong số họ có hậu duệ để nối ngôi.
 
===Nerva (96-98)===
[[Nerva]] được Viện nguyên lão chỉ định làm hoàng đế, nhưng ông không làm được gì nhiều vì thời gian ở ngôi quá ngắn, ngoại trừ một số nỗ lực để cải thiện mối quan hệ giữa hoàng đế và Viện nguyên lão. Trong khi đó, thế lực của Domitian trong quân đội vẫn còn lớn mạnh. Vào tháng 10 năm 97, [[đội vệ sĩ của Hoàng đế La Mã]] vây hãm cung điện và bắt giữ Nerva. Ông buộc phải thỏa mãn các yêu sách của họ, bao gồm việc giao nộp những kẻ đứng sau cái chết của Domitian và phải đứng ra đọc một bài diễn văn tạ ơn những kẻ nổi loạn.<ref name="victor-caesaribus-12-8">Aurelius Victor (attrib.), ''Epitome de Caesaribus'' [http://www.roman-emperors.org/epitome.htm 12.8]</ref> Sau đó, Nerva nhận [[Traianus|Trajan]], một chỉ huy ở mặt trận German, làm con nuôi. Ông mất vào năm 98, mở đường cho sự lên ngôi của Trajan.
 
===Trajan (98-117)===
Dòng 97:
Cũng cùng khoảng thời gian này thì một trong những vị vua chư hầu của La Mã là [[Rabbel II Soter]] đã qua đời. Sự kiện đó có thể đã dẫn đến sự sáp nhập [[vương quốc Nabataean]] vào La Mã. Trên vùng đất này, người La Mã lập ra tỉnh [[Arabia Petraea]] (ngày nay thuộc Nam [[Jordan]] và Tây Bắc [[Ả Rập Saudi]]).<ref>Bennett, Trajan, 172-182</ref>
 
Từ thời Nero, hai đế chế La Mã và Parthia đã cùng chia sẻ việc kiểm soát [[vương quốc Armenia (cổ đại)|vương quốc Armenia]], với vương triều Arsacid ở đây là một nhánh của hoàng tộc Parthia. Năm 112, Trajan tức giận vì việc vua [[Osroes I của Parthia]] đưa cháu mình là [[Exedares]] lên ngai vàng Armenia. Sự kiện này đã phá vỡ thế cân bằng quyền lực ở Armenia và cũng chấm dứt luôn hòa ước giữa hai đế chế đã tồn tại 50 năm.<ref>Statius Silvae 5.1; Dio Cassius 68.17.1.; Arrian Parthica frs 37/40</ref> Các quân đoàn La Mã lại sẵn sàng xung trận.
 
Đầu tiên, Trajan tiến quân vào Armenia. Ông phế truất vị vua mới lên ngôi và sáp nhập nơi đây vào La Mã. Sau đó ông hướng về Parthia, chiếm các thành phố [[Babylon]], [[Seleucia]] và cuối cùng là kinh thành [[Ctesiphon]] (năm 116).<ref>Bennett, Trajan, 197/199</ref> Trajan tiếp tục tiến về phía nam tới [[Vịnh Ba Tư]] và tuyên bố Mesopotamia ([[Lưỡng Hà]]) là một tỉnh mới của Đế chế. Ở đây, ông than thở rằng mình đã quá già để có thể tiếp tục tiến theo lộ trình chinh phạt vĩ đại của [[Alexandros Đại đế|Alexander Đại đế]].<ref name="Luttvak, Grand Strategy, 110">Luttvak, Grand Strategy, 110</ref>
 
Nhưng Trajan chưa dừng lại. Sau đó, cũng trong năm 116, ông chiếm thành phố [[Susa]], truất ngôi Oesroes I và đưa bù nhìn của mình là [[Parthamaspates]] lên ngôi. Chưa bao giờ La Mã tiến xa về phía đông như vậy. Dưới thời của Trajan, Đế chế La Mã mở rộng ra tới mức cực đại; người ta có thể đi từ đảo Anh tới vịnh Ba Tư mà vẫn chưa ra khỏi lãnh thổ La Mã.
Dòng 113:
 
===Marcus Aurelius (161-180)===
Các bộ tộc người German tiến hành nhiều cuộc cướp phá dọc biên giới phía Bắc của La Mã, đặc biệt là nhắm vào xứ Gaul và dọc sông Danube. Nguyên do của việc này có lẽ là do họ bị những bộ tộc hiếu chiến hơn tới từ phía Đông gây áp lực từ phía sau. [[Người Chatti]] tấn công tỉnh Thượng Germania vào năm 162 và bị đẩy lùi. Nguy hiểm hơn, năm 166, [[Marcomanni]] của [[người Bohemia]] (chư hầu của La Mã từ năm 19) vượt sông Danube cùng [[người Lombard]] và các bộ tộc German khác. Cùng lúc đó, [[người Sarmatia]] tấn công vào khu vực giữa sông Danube và [[sông Theiss]]. Hoàng đế [[Marcus Aurelius]] thân chinh xuất quân đánh các bộ tộc German trong phần lớn thời gian ở ngôi của mình, nhưng vì những vấn đề ở phía Đông nên quân đội La Mã gặp nhiều khó khăn. Ít nhất là họ đã thất bại hai trận lớn trước bộ tộc [[người Quadi|Quadi]] và Marcomanni, người sau đó đã vượt [[anpơ|dãy núi Alps]] để tàn phá Opitergium ([[Oderzo]]) và vây hãm [[Aquileia]], một thành phố lớn của La Mã ở Đông Bắc Ý. Sau một thời gian dài vất vả thì hoàng đế Marcus Aurelius cũng đẩy lùi được những kẻ xâm lăng, nhưng có rất nhiều người German đã trú lại các tỉnh biên giới như Dacia, [[Pannonia]], [[Đức]] và ngay cả trên đất Italy. Chuyện này không phải là mới, nhưng số lượng đông đảo của họ đã buộc chính quyền La Mã phải tạo ra hai tỉnh mới dọc bờ Tây sông Danube là [[Sarmatia]] và [[Marcomannia]] (ngày nay thuộc [[Čechy|Bohemia]] và [[Hungary]]). Những chiến công của Marcus Aurelius được ghi lại trong [[cột Marcus Aurelius]].
 
Ở châu Á, một đế chế Parthia mới trỗi dậy tiếp tục thách thức La Mã. Marcus Aurelius đưa vị đồng hoàng đế với mình là [[Lucius Verus]] tới thân chinh thống lĩnh các quân đoàn ở đây và cuối cùng đã đánh bại họ (xem [[Chiến tranh La Mã-Parthia 161-166]]). Vào năm 175, Marcus Aurelius tiêu diệt cuộc nổi loạn của [[Avidius Cassius]] (ông này làm phản do tưởng nhầm là Marcus đã qua đời).
Dòng 120:
 
===Commodus (180-192)===
Thời đại "Năm vị minh quân" kết thúc bởi triều đại của Commodus từ năm 180 đến 192. Nhiều người dân La Mã trông chờ ông sẽ rộng lượng và hào hiệp như cha mình, nhưng Commodus hoàn toàn ngược lại. Sử gia [[Edward Gibbon]] trong tác phẩm "[[Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã]]" cho rằng Commodus đã trị vì tốt trong giai đoạn đầu, nhưng trở nên hoang tưởng và mất trí sau một vụ ám sát do những người trong gia đình chủ mưu. Thời thịnh trị [[Thái bình La Mã|Pax Romana]] cũng chấm dứt với triều đại của ông.
 
Thay vì chăm lo trị nước, vị hoàng đế mê mẩn với những trò thể thao hơn. Commodus rất tự hào với sức mạnh thể chất và khả năng chiến đấu của mình. Ông tự cho mình là [[Heracles|Hercules]] tái thế và cho tạc nhiều tượng của mình đang khoác bộ da sư tử. Ông cũng thường xuyên trực tiếp tham gia vào những trận giác đấu ở đấu trường, và chứng tỏ mình là một đấu sĩ hạng nhất. Thế nhưng vào năm 192, Commodus đã bị võ sĩ [[Narcissus]] siết cổ tới chết trong một âm mưu liên quan tới Đội vệ sĩ của Hoàng đế La Mã và các thành viên Viện nguyên lão.
 
==Năm của năm hoàng đế (193)==
Dòng 140:
Con trai của Septimius Severus là Marcus Aurelius Antoninus (biệt danh Caracalla) khi lên kế vị đã dẹp bỏ tất cả sự phân biệt giữa người Italy và người ở tỉnh, cho thi hành [[Constitutio Antoniniana]] vào năm 212, trong đó mở rộng [[quyền công dân La Mã]] cho mọi người sinh sống tại đế chế. Ông cũng dựng lên [[nhà tắm Caracalla]] nổi tiếng ở kinh đô La Mã mà kiến trúc của nó đã là mẫu mực cho nhiều công trình công cộng tưởng niệm khác. Caracalla bị ám sát vào năm 217,<ref>Grant, The History of Rome, p. 279</ref> sau đó thì nhiều người phụ nữ quyền thế đã chi phối triều chính, bao gồm [[Julia Maesa]], [[Julia Soaemias]] và [[Julia Avita Mamaea]]. Chính họ đã lần lượt đưa Elagabalus và Alexander Severus lên kế vị vào các năm 218 và 222.
 
Vào cuối vương triều Severus, quyền lực của Viện nguyên lão có vẻ như lại phục hồi và có nhiều cải cách tài chính được ban bố. Mặc dù có những thắng lợi trước [[Nhà Sassanid|Đế chế Sassanid]] mới nổi lên thay thế Đế chế Parthia ở phương Đông (nhiều sử gia xem [[Nhà Achaemenes|Đế chế Achaemenes]] thời cổ, Đế chế Parthia và Đế chế Sassanid đều là [[Đế quốc Ba Tư|Đế chế Ba Tư]] nên dù La Mã chiến tranh với Parthia hay Sassanid thì họ đều gọi chung là chiến tranh với Ba Tư) nhưng rồi Alexander Severus lại đánh mất khả năng kiểm soát quân đội và bị ám sát vào năm 235. Cái chết của ông mở đầu cho một thời kỳ của những hoàng đế xuất thân từ quân đội và gần nửa thế kỷ nội chiến và tranh chấp.
 
==Cuộc khủng hoảng của thế kỷ 3 (235-284)==
Dòng 150:
Một phần vấn đề này có gốc rễ từ việc Augustus không định ra những luật lệ cụ thể để xác định người kế vị. Từ thế kỷ 1 và 2, vấn đề kế vị cũng đã gây ra những cuộc nội chiến ngắn, nhưng tới thế kỷ 3 thì nội chiến xảy ra liên miên khi mà chẳng kẻ giành ngôi nào nhanh chóng trấn áp được đối thủ hoặc ở ngôi được lâu. Trong khoảng thời gian này có không dưới 25 vị hoàng đế đã cai trị La Mã, và trừ ra 2 người thì tất cả họ đều bị ám sát hoặc tử trận trên chiến trường. Các công dân cũng không còn dự phần nhiều vào việc quản lý ở địa phương như trước. Chuyện này buộc hoàng đế phải can dự vào và từ từ nâng cao vai trò trách nhiệm của chính phủ.
 
Thêm vào nữa, kiểu tập trung quân ở biên giới của quân đội La Mã không thể chống lại được những cuộc xâm lăng một khi kẻ địch đã lọt qua. Ở phía đông, đế chế Sassanid tấn công La Mã quyết liệt hơn nhiều so với đế chế trước nó là Parthia.<ref>Matyszak, The Enemies of Rome, trang 234</ref> Vào năm 253, hoàng đế Sassanid là [[Shapur I]] tiến quân sâu vào lãnh thổ La Mã, đánh bại quân La Mã trong [[trận Barbalissos]]<ref>Matyszak, The Enemies of Rome, trang 236</ref> và chinh phục [[Antioch]].<ref name="ReferenceB">Grant, The History of Rome, trang 283</ref> Tiếp đó, vào năm 260, trong [[trận Edessa]], lại một lần nữa quân La Mã bại trận trước Sassanid<ref>Matyszak, The Enemies of Rome, trang 237</ref> và hoàng đế La Mã lúc đó là [[Valerianus (hoàng đế)|Valerian]] bị bắt giữ.<ref name="ReferenceB"/>
 
Cuộc khủng hoảng kết thúc nhờ vào Hoàng đế [[Diocletianus|Diocletian]]. Bằng cả tài năng lẫn vận may, ông đã giải quyết được nhiều vấn đề cấp bách. Thế nhưng, vấn đề cốt lõi của La Mã vẫn còn đó và cuối cùng đã gây nên sự tận diệt của đế chế ở phía Tây.
 
==Diocletian và triều đình ''Tứ đầu chế'' (284-301)==
[[Tập tin:Venice – The Tetrarchs 03.jpg|nhỏ|upright|''Tứ đầu chế'', một tác phẩm miêu tả triều đình La Mã thời ''Tứ đầu chế'', được lấy từ một cung điện Byzantine vào năm 1204.]]
Vào tháng 7 năm 285, Hoàng đế Diocletian đánh bại địch thủ là [[Carinus]] và trở thành vị hoàng đế duy nhất của La Mã. Ông nhận thấy rằng Đế chế La Mã quá lớn và có quá nhiều áp lực từ bên trong lẫn các mối đe dọa từ bên ngoài, chỉ một vị hoàng đế thì khó lòng cai trị được. Do đó, ông chia Đế chế ra làm hai nửa Đông và Tây (với ranh giới ở vùng Đông Ý). Hai bên sẽ có hai vị hoàng đế ngang quyền nhau cùng mang Đế hiệu [[Augustus (danh hiệu)|Augustus]]. Sự phân chia này là tiền thân của [[Đế quốc Tây La Mã|Đế chế Tây La Mã]] và [[Đế quốc Đông La Mã|Đế chế Đông La Mã]].
 
Hoàng đế Diocletian trở thành Augustus của nửa Đông và bạn ông, [[Maximian]], trở thành Augustus của nửa Tây. Tới năm 293 thì quyền lực tiếp tục được chia nhỏ ra hơn nữa, mỗi Augustus sẽ chọn ra một hoàng đế trẻ hơn gọi là [[Caesar (danh hiệu)|Caesar]] để giúp mình trị nước. [[Galerius]] trở thành Caesar của Diocletian còn [[Constantius Chlorus]] là Caesar của Maximian.
 
Thể chế này được gọi là "[[Tứ đầu chế]]" (tiếng Anh: ''Tetrarchy'') bởi các học giả đời sau.<ref>Southern, 145.</ref> Chính quyền này nhằm giúp những cuộc kế vị trở nên êm đẹp hơn: ở mỗi nửa của Đế chế, một Caesar rồi sẽ lên thay một Augutus và chọn ra Caesar mới cho mình. Năm 305, Diocletian và Maximian cùng thoái vị để nhường ngôi cho các Caesar. Tới lượt cháu của Galerius là [[Maximinus II|Maximinus]] lên làm Caesar ở phía Đông và [[Severus II|Flavius Valerius Severus]] lên làm Caesar ở phía Tây cho Constantius. Sử gia Edward Gibbon nói rằng thể chế này hoạt động trơn tru là vì sự gắn bó của các hoàng đế với nhau.
 
Bên cạnh việc xây dựng phương pháp cai trị mới, Hoàng đế Diocletian, vốn là một người ngoại đạo và lo lắng khi thấy số lượng tín đồ Thiên chúa giáo đang tăng lên rất nhanh, đã ngược đãi họ với mức độ nặng nề chưa từng thấy kể từ thời Nero.
Dòng 166:
==Vương triều Constantine (305-363)==
===Constantine và các con trai===
Hệ thống ''Tứ đầu chế'' bị phá vỡ khi [[Constantius Chlorus]] mất vào năm 306. Lực lượng của Constantius ở [[Eboracum]] ngay lập tức suy tôn con trai của ông ta là [[Constantinus IĐại đế|Constantine I]] (còn được biết đến như là Constantine Đại đế) thành Augustus. Vào tháng 8 năm 306, Galerius phong cho Severus thành Augustus. Một cuộc nổi loạn ở kinh đô La Mã đưa một người nữa tham gia cuộc tranh giành là [[Maxentius]], con trai của Maximian, với sự ủng hộ của Đội vệ sĩ của Hoàng đế La Mã. Như vậy ở phía tây của Đế chế có tới 3 Augustus: một nguyên là Caesar đời trước và hai do quân đội lập nên.
 
Vào năm 307, Maximian trở lại với danh hiệu Augustus và cùng cai trị với con mình. Như vậy tổng cộng thì La Mã có tới 6 người cai trị (5 Augustus: Galerius, Severus, Constantine, Maxentius, Maximian và 1 Casear: Maximinus). Galerius và Severus tấn công hai cha con Maximian ở Italy, nhưng Severus bị bắt giết vào năm 307.<ref>Barnes, ''Constantine and Eusebius'', 30–31; Elliott, ''Christianity of Constantine'', 41–42; Lenski, "Reign of Constantine" (CC), 62–63; Odahl, 86–87; Potter, 348–49.</ref> Hai vị Augustus ở Italy sau đó kết liên minh với Constantine bằng cách gả con gái của Maximian cho ông.
[[Tập tin:Byzantinischer Mosaizist um 1000 002.jpg|nhỏ|phải|''Constantine the Great'', hình ghép mảnh ở [[Hagia Sophia]]. Trong hình có thể thấy được những liên hệ của ông với Thiên chúa giáo.]]
Cuộc nội chiến sau đó vẫn tiếp tục và chứng kiến Constantine lần lượt đánh bại các đối thủ khác. Năm 324, ông đánh bại đối thủ cuối cùng là người em rể [[Licinius]] để thống nhất Đế chế.<ref>MacMullen, ''Constantine''.</ref> Ngoài ra, trong triều đại của mình, Constantine cũng có những thắng lợi trước người [[người Frank|Frank]], [[ngườiNgười AlamanniAlemanni|Alamanni]], [[người Visigoth|Visigoth]] và [[người Sarmatia|Sarmatia]], thậm chí là tổ chức tái định cư lại một phần Dacia (bị bỏ rơi từ thế kỷ 3).
 
Hai việc làm đáng nhớ nhất dưới thời Constantine là cải sang đạo Thiên chúa và phát triển thành phố [[Constantinopolis|Constantinople]]. Năm 313, Constantine công bố chấp nhận Thiên chúa giáo trong [[Sắc lệnh Milan]]. Sắc lệnh này cho phép những người đạo Thiên chúa giáo có quyền theo đuổi đức tin của họ.<ref>Bowder, Diana. ''The Age of Constantine and Julian''. New York: Barnes & Noble, 1978</ref> Hệ quả của sắc lệnh này là việc bãi bỏ những trừng phạt đối với những người theo Thiên chúa giáo và trả lại các tài sản đã bị tịch thu của [[Giáo hội Công giáo Rôma|Giáo hội]]. Sau đó ông tuyên bố chính mình cũng là một tín đồ của Thiên chúa giáo. Sự chuyển đổi của ông và sự bảo trợ Giáo hội của ông đã thiết lập lại vị thế mới của Thiên chúa giáo trong toàn đế chế. Những người Thiên chúa giáo theo [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo Đông phương]] xem ông như là Thánh Constantine.<ref>Pohlsander, ''Emperor Constantine'', 83–87.</ref>
 
Năm 324, Constantine tuyên bố quyết định biến Byzantium thành Nova Roma (Tân La Mã) và vào 11 tháng 5, 330, ông dời đô từ thành La Mã về Tân La Mã. Thành phố được đặt tên lại là Constantinople (Thành phố của Constantine) sau khi Constantine mất năm 337. Từ đó bắt đầu vai trò của Đông La Mã như là một trung tâm của sự giáo dục, thịnh vượng và văn hóa ở châu Âu. Constantinople vẫn là kinh thành của Đế quốc Byzantine trên hơn một ngàn năm, chỉ bị ngắt quãng tạm thời bởi sự đốt phá và chiếm đóng của quân [[Thập tự chinh]] lần 4 năm 1204, cho đến khi rơi vào tay [[Đế quốc Ottoman]] năm 1453 (hiện nay thành phố này là [[Istanbul]] của [[Thổ Nhĩ Kỳ]]).
 
Sau khi Constantine I qua đời, Đế chế lại bị chia ba bởi ba người con của ông. Tây La Mã bị chia đôi giữa con trưởng là [[Constantine II]] và con út là [[Constans]]. Đông La Mã cùng Constantinople thuộc về con thứ, [[Constantius II]]. Cuồi cùng thì Constantius II đánh bại được các anh em mình, thế nhưng tới năm 360 thì sự thống trị của ông lại bị lung lay. Trước đó ông đã phong cho [[FlaviusJulianus Claudius(Hoàng Julianusđế)|Julian]] (Flavius Claudius Julianus) làm Caesar ở Tây La Mã vào năm 355. Trong 5 năm sau đó, Julian giành nhiều thắng lợi trên chiến trường trước các tộc German, bao gồm cả người Alamanni. Khi Constantius hạ lệnh cho các quân đoàn xứ Gaul phải sang phía đông để tiếp viện cho cuộc chiến với Ba Tư, họ đã nổi dậy và tôn chỉ huy của mình là Julian lên làm Augustus. Vào lúc hai vị hoàng đế đều chưa muốn tiến quân đánh nhau thì Constantius đã qua đời vì bệnh vào tháng 11 năm 361, khiến đất nước tránh được một cuộc nội chiến.
 
===Julianus và Jovianus (361–364)===
Dưới triều Hoàng đế [[Julianus (Hoàng đế)|Julianus]], triều đình [[Đế quốc La Mã|La Mã]] cổ súy trở lại cho các [[tôn giáo đa thần]] và và tiến hành đàn áp [[Kitô giáo|Ki-tô giáo]] (mặc dù bản thân ông không phải là một tín đồ ngoại giáo). Những chính sách này làm nhận định về ông trong các tài liệu thời đó rất mâu thuẫn: những người ngoại giáo thì xem ông như một vị anh hùng, còn các Ki-tô hữu thì lại cho ông là một tên vua xấu xa. Thế nhưng dù sao đi nữa thì sự phục hưng ngoại giáo này cũng kéo dài chẳng được bao lâu. Nó đã chết yểu khi ông qua đời trên chiến trường trong các cuộc chiến tranh chống lại Đế quốc Sassanid (năm 363).
 
Là một thiên tài quân sự vĩ đại nhất thời đại đó, Hoàng đế Julianus đã thân chinh xuất quân đại phá tan nát quân Sassanid do Hoàng đế [[Shapur II]] thống lĩnh trong [[Trận Ctesiphon (363)|trận đánh]] gần kinh đô [[Ctesiphon]] của Đế quốc Sassanid, làm vua Shapur II cùng đám tùy tùng phải bỏ chạy.<ref name="redout">Joseph J. Reed, ''Outlines of universal history: in three parts; with a copious index to each part, showing the correct mode of pronouncing every name mentioned ...'', trang 158</ref> Không những thế, ông cũng là một nhà bảo trợ của [[triết học]] và [[khoa học]], nên ông được gọi là vị ''[[vua-triết gia]]''.<ref>Russell M. Lawson, ''Science in the ancient world: an encyclopedia'', trang 127</ref> Khi Hoàng đế Julianus đột ngột qua đời, Hoàng đế Shapur II cũng giành lại thế thượng phong.<ref name="redout"/> Vì Hoàng đế Julianus không có con và không chỉ định người thừa kế nên quân đội tôn [[Jovianus (hoàng đế La Mã)|Jovianus]], lúc bấy giờ là một viên tướng khá vô danh, lên làm hoàng đế. Hoàng đế Jovian phải ký một hòa ước bất lợi với Đế quốc Sassanid (bao gồm việc phải trao trả lại các vùng đất đã giành được từ tận thời Hoàng đế Traianus, trong đó có vương quốc Armenia). Dưới thời của mình, Jovianus cũng hồi phục lại địa vị cho Thiên chúa giáo.
Dòng 185:
==La Mã từ năm 364 đến 395==
===Valentinian và Valens===
Sau khi Jovian mất vào năm 364, việc chọn ra Augustus mới lại rơi vào tay quân đội. Vào tháng 2 năm 364, viên tướng [[Pannonia]] là [[Valentinianus I|Valentinian I]] được tôn lên làm hoàng đế ở Nicaea, Bithynia. Ông lập ra [[vương triều Valentinian]] (364-392). Dưới sự yêu cầu của các tướng lĩnh, Valentinian chọn ra một người đồng cai trị. [[Valens]], em trai của ông, sẽ cai trị Đế chế Đông La Mã, còn ông sẽ cai trị Đế chế Tây La Mã.
 
Sự lựa chọn Valens nhanh chóng gây bất đồng. [[Procopius]] (một người anh em họ của Julian tưởng như trước đó sẽ được kế vị nhưng cuối cùng lại không được) đánh chiếm Constantinople vào năm 365 và tuyên bố là hoàng đế của Đông La Mã. Chiến tranh nổ ra giữa Valens và Procopius, cho đến năm 366 thì Procopius bị đánh bại.
Dòng 191:
Vào tháng 4 năm 367, Valentinian và Valens phong cho đứa con mới 8 tuổi của Valentinian là [[Gratian]] thành một Augustus đồng cai trị hữu danh vô thực. Điều này nhằm giúp bảo vệ sự kế vị sau này.
 
Tháng 4 năm 375, khi đang dẫn quân đánh người [[Quadi]] ở Pannonia thì Valentinian I bị vỡ mạch máo não do quát tháo. Chấn thương này làm ông mất vào tháng 11 năm 375. Sự kế vị diễn ra không theo kế hoạch ban đầu. Gratian lúc này đã 16 tuổi, nhưng binh sĩ ở Pannonia lại tôn người em sơ sinh cùng cha khác mẹ của ông lên thành [[Valentinianus II|Valentinian II]].
 
Gratian chấp nhận chuyện này. Trên danh nghĩa thì ông sẽ quản lý xứ Gaul, còn Italy, [[Illyria]] và châu Phi sẽ thuộc về em ông và mẹ của ấu chúa là [[Justina]], nhưng thực ra thì quyền hành vẫn trong tay ông.
 
===Đông La Mã và trận Adrianople (378)===
Trong cùng lúc đó, Đế chế Đông La Mã phải đối mặt với mối đe dọa từ các tộc German. Bị [[người Hung]] dồn ép từ phía sau, những [[goth|người Goth]] thuộc tộc [[Thervingi]] đã chạy vào Đế chế Đông La Mã để trú ẩn. Valens cho họ tạm định cư ở bờ nam sông Danube vào năm 376, thế nhưng những người di cư này lại gặp rắc rối từ những sự ngược đãi và những kẻ lãnh đạo suy đồi ở đây. Sự bất mãn khiến họ nổi loạn chống lại La Mã.
 
Valens thân chinh cầm quân đánh họ vào năm 378, và Gratian cũng đang trên đường đem viện binh từ Tây La Mã tới giúp. Nhưng do quá nôn nóng, Valens đã không chờ Gratian mà dẫn quân xông lên trước và thua tan tác trong [[trận Hadrianopolis|trận Adrianople]].<ref>Ammianus Marcellinus, ''Historiae'', book 31, chapters 12–14.</ref> Gần hai phần ba quân La Mã tử trận, trong số đó có cả hoàng đế Valens cùng rất nhiều những viên chức và các tướng lĩnh quan trọng. Điều này dẫn đến những hậu quả lâu dài cho Đế chế về sau khi họ thiếu hụt về nhân sự. Phần lớn quân đội La Mã về sau này được tuyển mộ từ người German đánh thuê.
 
Sau cái chết của Valens, Gratian đưa [[Theodosius I]] lên làm Augustus của Đông La Mã vào tháng 1 năm 379.
Dòng 209:
 
===Sự phân chia cuối cùng của La Mã===
Valentinian II bị ám sát ở [[Viên]] vào năm 392. Tướng [[Arbogast]] đưa [[Eugenius]] lên ngôi nhưng Theodosius không công nhận vua này.<ref>Williams and Friell, p129.</ref> Sau đó thì ông giết sạch cả hai trong [[trận sông Frigidus|trận Frigidus]] (tháng 9 năm 394)<ref>Williams and Friell, p 134.</ref> rồi thống nhất Đế chế La Mã dưới quyền mình. Sau khi nắm quyền, Theodosius I Đại Đế thẳng tay bài trừ ngoại giáo<ref>[http://www.newadvent.org/cathen/14577d.htm "Theodosius I", Catholic Encyclopedia, 1912]</ref> và hoàn tất việc đưa Thiên chúa giáo trở thành quốc giáo của đế chế La Mã.<ref>Cf.decree, ''infra''.</ref> Sau này, [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo Đông phương]] tôn ông thành Thánh Theodosius.
 
Theodosius I Đại Đế đi vào lịch sử như là vị hoàng đế cuối cùng thống trị một Đế chế La Mã nguyên vẹn. Sau cái chết của Theodosius vào năm 395, hai con trai của ông là [[Arcadius]] và [[Honorius]] chia nhau cai trị Đông La Mã (đóng đô tại thành Constantinople) và Tây La Mã (định đô tại [[Milano|Milan]], sau đó dời đô về [[Ravenna]]). Từ đây hai Đế chế La Mã hoạt động độc lập về mặt chính trị với các vị hoàng đế khác nhau.
 
==Sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã (395-476)==
Dòng 220:
Ở bên ngoài, sự yếu kém của các quân đoàn La Mã đã dẫn tới những cuộc xâm lăng liên tục của các man tộc. Dưới áp lực của người Visigoth, hoàng đế Honorius phải dời đô từ [[Mediolanum]] (nay là Milan) về Ravenna, nơi có địa thế và khả năng phòng thủ tốt hơn.<ref>Bury, pg. 110</ref> Năm 410, người [[Visigoth]] do [[Alaric I]] dẫn đầu đã đánh chiếm và [[Cuộc cướp phá thành La Mã (410)|cướp phá thành La Mã]] (lần đầu tiên sau 800 năm, kể từ thế kỷ 4 TCN, kinh thành La Mã mới lại bị chiếm đóng bởi một quân đội ngoại lai). Sau đó, dưới thời các hậu duệ của Alaric, người Visigoth tới bán đảo Iberia và xây dựng một vương quốc cho riêng mình tồn tại 200 năm. Cũng cùng năm 410, quân La Mã rút khỏi đảo Anh, để mặc nơi đây trở thành tâm điểm cho những cuộc xâm lược của người [[Pict]] và [[Anglo-Saxon]] trong thế kỷ 5.<ref>cf. {{harvtxt|Dumville|1990}}</ref>
 
Mặc dù La Mã từng phải đối mặt với nhiều kẻ thù, nhưng có lẽ không thế lực nào hung hãn và đáng sợ hơn [[người Hung]]. Dưới sự chỉ huy của vua [[Attila]], người Hung đã nhiều lần vượt sông Danube cướp phá Đông La Mã, buộc các hoàng đế ở Constantinople phải cống nạp cho họ rất nhiều của cải. Năm 450, [[Honoria]], nguyên là chị gái của hoàng đế Tây La Mã [[Valentinianus III|Valentinian III]], tự ý gửi nhẫn đính hôn cho Attila. Ông ta đòi một nửa Tây La Mã làm của hồi môn, và khi bị từ chối, Attila đã lấy cớ này để dẫn quân tràn sang phía Tây.<ref>A modern narrative based these sources can be found in E.A. Thompson, ''The Huns'' (Oxford: Blackwell, 1996), pp. 144–48.</ref> Quân Hung tàn phá xứ Gaul, đe dọa chiếm cả Tây Âu và chỉ bị chặn lại sau [[trận Châlons|trận những cánh đồng Catalaunian]] trước liên quân La Mã và Visigoth do tướng Aetius lãnh đạo. Trận chiến này được ghi nhận như một trong những trận chiến khốc liệt nhất trong lịch sử với những tổn thất thương vong ghê gớm cho cả hai bên.<ref>Gibbon, ''Decline and Fall'', volume II, p.285.</ref> Sang năm sau, Attila lại một lần nữa kéo quân vào Tây La Mã, lần này thì tấn công Italy và dự định tiến thẳng vào cố đô La Mã. Thế nhưng khi đã tiến tới gần thành La Mã thì Attila lại dừng lại và rút quân trở về. Nguyên do của việc này có thể là do sự kết hợp giữa dịch bệnh đang hoành hành trong nội bộ quân Hung, cuộc đàm phán của [[Giáo hoàng Lêô I|giáo hoàng Leo I]] và việc quân Đông La Mã tấn công vùng đất của ông ta từ phía sau.<ref>Hydatius, Chron Min. ii pp.26ff</ref> Mối nguy hiểm từ người Hung chỉ kết thúc sau cái chết của Attila vào năm 453.
 
Ở phía nam, [[người Vandal]] đánh chiếm [[Carthage]] vào năm 439 và xây dựng một hạm đội hùng mạnh để quấy nhiễu vùng biển phía Tây và Nam của [[Địa Trung Hải]]. Valentinian III giết Aetius vào năm 454 để rồi một năm sau ông cũng bị ám sát chết bởi những người ủng hộ viên tướng này. Người Vandal nhân cơ hội đó để tiến vào [[Cuộc cướp phá thành La Mã (455)|cướp phá thành La Mã]] (năm 455).
 
Năm 476, một viên tướng người German là [[Odoacer]] nổi dậy làm chính biến lật đổ hoàng đế cuối cùng của Tây La Mã là [[Romulus Augustus]]. Đế chế Tây La Mã diệt vong ở đây. Về danh nghĩa thì Odoacer là chư hầu của Đông La Mã nhưng thực tế thì chính ông mới là người trị vì Italy. Trên đất đai cũ của Tây La Mã, ba vương quốc mới dần được thành lập gồm vương quốc [[người Ostrogoth|Ostrogoth]], vương quốc [[người Lombard|Lombard]] và vương quốc [[người Frank|Frank]].
 
[[Hình:476eur.jpg|550px|giữa|nhỏ|Bản đồ châu Âu vào năm 476.]]‎
Dòng 231:
[[Hình:LocationByzantineEmpire 550.png|nhỏ|250px|Đế chế Đông La Mã ở đỉnh cao vào năm 550.]]
{{bài chính|Lịch sử Đế chế Đông La Mã}}
Sau khi Tây La Mã diệt vong vào thế kỷ thứ 5, [[Đế quốc Đông La Mã|Đế chế Đông La Mã]] (thường gọi là Đế chế Byzantine), vốn giàu có hơn, đã tồn tại và phục hồi được sức mạnh của mình. Vào giữa thế kỷ thứ 6, hoàng đế [[Justinianus I|Justinian I]] đánh chiếm lại Italy và một phần [[Illyria]] từ tay người Ostrogoth, Bắc Phi từ tay người Vandal, và một phần [[Hispania]] từ tay người Visigoth.
 
Hoàng đế [[Heraclius]] thực hiện các cải cách vào năm 610, đưa đến những thay đổi to lớn cả về bề ngoài lẫn bản chất của Đế chế. Nền văn hóa của người Byzantine từ đó gắn liền với văn hóa Hy Lạp, nhưng những cái tên mà họ tự gọi mình luôn nhắc nhở rằng họ là sự tiếp nối của Đế chế La Mã.
 
Về quân sự và chính trị, Đế chế Byzantine từng là một thế lực to lớn ở phía Đông châu Âu trong hơn 1000 năm. Thế nhưng sau nhiều cuộc chiến tranh, lãnh thổ của Đế chế bị thu hẹp dần và cuối cùng đã sụp đổ vào năm 1453 khi [[Mehmed II]] của [[Đế quốc Ottoman|Đế chế Ottoman]] chinh phục thành Constantinople.<ref>Matyszak, The Enemies of Rome, trang 231</ref>
 
==Chú thích==