Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Máy bay cường kích”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q208187 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 23:
 
==Sau chiến tranh thế giới II==
[[Tập tin:Thunderbolt II flight above.jpg|nhỏ|250px|[[Fairchild Republic A-10 Thunderbolt II|A-10 Thunderbolt II]]]]
Trong thời kỳ hậu chiến tranh thế giới II, động cơ piston vẫn được tiếp tục sử dụng cho máy bay cường kích - [[máy bay tiêm kích]] [[Hawker Sea Fury]] của [[Hải quân Hoàng gia Anh]], Vought [[Vought F4U Corsair|F4U Corsair]] và Douglas [[Douglas A-1 Skyraider|A-1 Skyraider]] của Hoa Kỳ đã tham chiến trong [[Chiến tranh Triều Tiên]], và sau đó chúng vẫn được sử dụng trong [[Chiến tranh Việt Nam]]. Sau một thời gian dài phát triển chậm chạp với động cơ piston, những chiếc máy bay mới được trang bị những động cơ phản lực mạnh mẽ.
 
Trong hầu hết các lực lượng không quân sau chiến tranh thế giới II đều miễn cưỡng tăng cường phát triển máy bay chiến đấu đặc biệt cho vai trò máy bay cường kích. Dù việc hỗ trợ từ trên không và ngăn chặn tiếp tế của đối phương là điều quan trọng trong chiến trường hiện đại, nhưng máy bay tấn công lại ít hấp dẫn hơn máy bay tiêm kích, và cả phi công lẫn những nhà chiến lược quân sự đều có một cái nhìn khinh thường với những nhà thiết kế. Thực tế hơn, chi phí bổ sung của một máy bay cường kích chuyên dụng thường lớn hơn so với máy bay đa chức năng.
 
Vào cuối thập niên 1960, [[Không quân Hoa Kỳ]] đã đặt hàng một máy bay hỗ trợ chuyên dụng, sau này mẫu thiết kế đã trở thành [[Fairchild Republic A-10 Thunderbolt II|Republic A-10 ''Thunderbolt II'']]. Nó dần dần trở thành một vũ khí chống các loại xe bọc giáp chủ yếu với khả năng hạn chế trong ngăn chặn tiếp tế và vai trò ném bom chiến thuật, nhưng bù lại nó lại nổi trội trong vai trò chống tăng. Tuy nhiên, hiệu suất hoạt động của A-10 trong [[Chiến tranh vùng Vịnh]] đã phủ nhận những lời bình phẩm này. Học thuyết của Hoa Kỳ hiện này ngày càng nhấn mạnh sử dụng [[máy bay trực thăng|trực thăng]] quân sự để hỗ trợ mặt đất và chống tăng. [[Liên Xô]] cũng có những mẫu thiết kế tương tự, như [[Sukhoi Su-25]] (''Frogfoot''), sau này các phiên bản của Su-25 phần lớn được rút dần khỏi biên chế, để danh chỗ cho những phiên bản tiêm kích-ném bom nhanh hơn như [[Mikoyan MiG-29|MiG-29]] và [[Sukhoi Su-27|Su-27]].
 
Những thí dụ về máy bay cường kích hiện đại như [[Fairchild Republic A-10 Thunderbolt II|A-10 Thunderbolt II]], [[Sukhoi Su-7]], [[Sukhoi Su-17]], [[Sukhoi Su-25]] (''Frogfoot''), [[Nanchang Q-5]]. Máy bay cường kích mặt khác đã được chuyển đổi thành máy bay huấn luyện như [[BAC Strikemaster]], [[BAE Hawk]], và [[Cessna A-37]].
 
==Thời gian gần đây==
Dòng 37:
Dưới thỏa thuận Key West, về sự phân phối máy bay giữa Lục quân và Không quân Hoa Kỳ, máy bay cường kích cánh cố định sẽ được chuyển cho không quân, trong khi trực thăng tấn công sẽ được lục quân. Lục quân muốn có những tài nguyên của riêng mình để hỗ trợ các đơn vị của họ trong chiến đấu và đối mặt với sự thiếu nhiệt tình của không quân trong vai trò tấn công mặt đất, việc phát triển trực thăng tấn công [[AH-64 Apache]] với vai trò tấn công mặt đất như tiêu diệt xe tăng của quân địch và hỗ trợ các đơn vị trong chiến đấu.
 
Apache là giải pháp chính cho vai trò chống tăng trong quân đội Mỹ giống như [[Fairchild Republic A-10 Thunderbolt II|A-10]], nhưng nó bị kết luận là hiệu suất hoạt động thấp, trong khi A-10 thực hiện tốt vai trò chống tăng của mình trong Chiến tranh vùng Vịnh và ở Iraq. Thực vậy, trong Cuộc xâm chiến Iraq năm 2003, một đơn vị AH-64 đã tấn công ác liệt đơn vị Hammurabi Vệ binh cộng hòa Iraq và góp phần tiêu diệt đơn vị này.
 
Theo thời báo quân sự,[http://www.murdoconline.net/archives/003682.html#more] Lục quân đang chuyển học thuyết từ trực thăng tấn công sang máy bay cường kích, vì trực thăng rất dễ bị tổn thương do hỏa lực của vũ khí bộ binh.[http://www.aviationnow.com/avnow/news/channel_aerospacedaily_story.jsp?id=news/urb07303.xml]