Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Pháo tự hành”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: |thumb| → |nhỏ| (9), |right| → |phải| (8), [[File: → [[Tập tin: (2), [[Image: → [[Hình: (7)
Dòng 1:
[[FileTập tin:AS-90 self-propelled artillery.JPG|thumbnhỏ|rightphải|300px|Một khẩu đội pháo tự hành British [[AS-90]] đang bắn tại [[Basra]], Iraq, 2006. ]]
[[FileTập tin:2s19 armyrecognition russia 012.jpg|thumbnhỏ|rightphải|300px|Pháo tự hành Russian SPA [[2S19 Msta]]]]
'''Pháo tự hành''' là một loại phương tiện mang lại sự cơ động cho [[pháo binh]]. Khái niệm này còn bao hàm cả các loại [[súng tự hành]], [[lựu pháo]] và [[pháo phản lực]]. Nó có đặc điểm là có tính cơ động cao, nhờ vào sử dụng bánh xích nên không cần các phương tiện xe kéo chở đi và có thể tự di chuyển. Pháo tự hành được dùng để làm hỏa lực hỗ trợ tầm xa trên chiến trường.
 
Dòng 10:
 
== Những năm trước thế chiến ==
[[ImageHình:Horse artillery rear.jpg|thumbnhỏ|Một kiểu pháo ngựa kéo hạng nhẹ của quân đội Thụy Điển, năm 1850]]
Trong những năm thế kỉ 17, tiền thân của pháo tự hành chính là những loại pháo ngựa kéo, những loại pháo này sử dụng đạn pháo tròn, cây đút pháo có ngòi lửa rồi sau đó bắn. Đi đầu trong việc này chính là nước [[Nga]], họ bắt đầu sử dụng những loại pháo này trong những chiến dịch vừa và lớn với quân đội [[Thụy Điển]]. Các nước Châu Âu nhanh chóng học tập kĩ thuật quân sự mới này và bắt đầu ứng dụng vào các bãi tập quân sự. [[Friedrich II của Phổ|Friedrich Đại đế]], [[vua]] [[Phổ (quốc gia)|Phổ]] đã thành lập đơn vị [[pháo đội kỵ binh]] chuyên nghiệp đầu tiên năm 1759. Trong cuộc [[Chiến tranh Cách mạng Pháp]] năm 1790, liên quân Áo-Phổ sử dụng pháo binh đánh phá quân Pháp và tất nhiên là quân Pháp cũng sử dụng thứ vũ khí này để đánh trả. Pháo ngựa kéo được sử dụng đến tận thời [[Napoléon Bonaparte|Napoléon I]] (1804-1815). Rồi sau đó bước qua thế kỉ 20, mở đầu một thời kì mới của pháo tự hành.
 
== Thế chiến I ==
[[ImageHình:British Gun Carrier Mark I - 60 pdr.jpg|rightphải|thumbnhỏ|Pháo tự hành Mark I]]
Pháo tự hành Mark I là thí nghiệm đầu tiên về pháo tự hành hiện đại, được đưa vào chiến trường năm 1917([[chiến tranh thế giới thứ nhất|thế chiến I]]). Nó dựa trên khung tăng, nhưng hủy phần tháp pháo trên và thay vào đó là một khẩu pháo tự hành;thêm một chiếc bệ sắt và hàn vào thân tăng. Thay cho sức ngựa đó chính là xích tăng, để di chuyển linh hoạt hơn. Pháo tự hành Mark I chính là tiền thân của các loại pháo tự hành hiện đại trong tương lai.
 
== Thế chiến II ==
[[ImageHình:ISU-152 at Victory Park in Moscow.jpg|thumbnhỏ|rightphải|250px|ISU-152K biệt danh "kẻ diệt quái thú", một trong những pháo tự hành nổi tiếng nhất của Hồng quân Xô Viết trong thế chiến thứ hai.]]
Vào thế chiến II, [[Đức]] và [[Liên Xô]] chính là hai cường quốc quân sự chính sử dụng pháo tự hành trong chiến tranh. Đức áp dụng chiến thuật ''[[Blitzkrieg|''Chiến tranh chớp nhoáng'']]'' - bộ binh và thiết giáp tấn công cùng với máy bay bổ trợ. Lực lượng quân đội Đức đã chế ra được rất nhiều loại pháo tự hành nổi tiếng và có hỏa lực cao. Trong [[Cuộc tấn công Ba Lan (1939)|cuộc tấn công]] [[Ba Lan]] ([[1939]]), cũng như [[trận chiến nước Pháp]] ([[1940]]) và [[Chiến dịch Barbarossa]] ([[1941]])… quân đội Đức đã sử dụng pháo tự hành để tiêu diệt-phá hủy các cụm quân địch và các pháo đài. Thế chiến II cũng là thời kì mà một số loại pháo tự hành siêu nặng ra đời.
 
Cùng với [[Đức Quốc Xã]], [[Liên Xô]] chính là nước thứ hai sử dụng pháo tự hành trong phần lớn trận chiến. Pháo tự hành của Liên Xô ra đời sau Đức Quốc Xã và có độ hỏa lực cao và sức chiến đấu tốt hơn pháo tự hành Đức. Nhưng tốc độ di chuyển và lượng đạn mang được của các pháo tự hành Liên Xô lại quá hạn chế. Điển hình chính là các pháo [[ISU-152]] và [[ISU-122]]. Lực lượng pháo tự hành Xô-Viết có lớp giáp bọc rất dày và độ phá giáp của nó thì không thể tưởng tượng được. Pháo tự hành của Đức cũng vậy nhưng hơi kém hơn về hỏa lực bắn.
Dòng 27:
== Pháo phản lực ==
{{Chi tiết|Pháo phản lực}}
[[ImageHình:16-tube multiple launch rocket.JPG|thumbnhỏ|rightphải|250px|Pháo phản lực 16 nòng BM-12 của Đức Quốc Xã]]
Từ thế chiến II, hệ thống pháo phản lực đã xuất hiện. Nước đi đầu trong lĩnh vực này chính là [[Đức Quốc Xã]] từ những năm 1930. Tiếp theo là [[Liên Xô]], họ đã chế ra được những dàn pháo phản lực Kachiusa-một thứ vũ khí chết người. Sau Kachiusa, người [[Hoa Kỳ|Mĩ]] và [[Anh]] đã bắt đầu tham gia chế tạo loại vũ khí mới mẻ này.
 
Dòng 34:
== Lựu pháo ==
{{Chi tiết|Lựu pháo}}
[[ImageHình:Artilleryman of the Afghan National Army.jpg|thumbnhỏ|rightphải|250px|Lựu pháo D-30 đang bắn]]
Trong các thời kì quân đội, ngoài pháo tự hành và [[pháo phản lực]] - lựu pháo cũng là một trong những binh chủng chính.
 
Dòng 42:
 
== Pháo tự hành thời hiện đại ==
[[ImageHình:G5 howitzer (Impi).jpg|thumbnhỏ|rightphải|250px|Pháo tự hành 155 mm G5]]
Ngày nay, pháo tự hành đóng một vai trò quan trọng đối với quân đội các nước. Kể từ thời hiện đại, đã có hai cuộc chiến xảy ra đó chính là [[Chiến tranh Lạnh|Chiến tranh lạnh]] và [[Chiến tranh vùng Vịnh|Chiến tranh vùng vịnh]] và trong cả hai cuộc chiến trên, đều có sự tham gia của các loại pháo tự hành.
 
Dòng 50:
 
Một ví dụ điển hình về pháo tự hành hiện đại 6 nòng chính là pháo [[155 mm G6]]. Nó có thể bắn đi cùng một lúc 6 viên đạn. 155 mm G6 còn có chức năng phóng khói mù(do nó có thể bắn được đạn mù) giúp bộ binh chạy thoát. Một ví dụ khác nữa đó chính là pháo [[155 mm G5]], G5 có chiều dài nòng kỉ lục giúp tầm bắn của nó có thể với xa đến hơn 50 km (nếu như được đặt trên bệ hoặc xe).
[[ImageHình:Denel G6-45 Ysterplatt Airshow 2006.jpg|thumbnhỏ|rightphải|250px|Pháo tự hành 155 mm G6]]
{{Commonscat|Self-propelled artillery}}