Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chu Hữu Trinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Chu Hữu Trinh
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 26:
 
== Thân thế ==
Chu Hữu Trinh sinh năm 888 tại Biện châu (汴州, nay thuộc [[Khai Phong]], [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]]) của Đại Đường, là con trai thứ tư của [[Chu Toàn Trung]] - khi đó đang là Tuyên Vũ tiết độ sứ (trị sở đặt tại Biện châu). Mẫu thân của Chu Hữu Trinh là Trương phu nhân,<ref name=HFD8/> và ông là con đẻ duy nhất được ghi nhận của bà.<ref>''[[Tân Ngũ Đại sử]]'', [[:zh:s:新五代史/卷13|quyển 13]].</ref> Ông được mô tả là dung mạo tuấn tú, tính trầm hậu ít nói, và nhãquý hảomến [[nho sĩ]]. Năm Quang Hóa thứ 3 (900), ông nhậm chức Hà Nam phủ tham quân (thẩm quyền ở khu vực [[Lạc Dương]]).<ref name=HFD8/>
 
== Dưới thời Hậu Lương Thái Tổ ==
Dòng 32:
 
== Dưới thời Chu Hữu Khuê ==
Năm 912, Hậu Lương Thái Tổ lâmbị trọngốm bệnhnặng, song Thái Tổ lại yêu mến dưỡngngười tửcon nuôi là Bác vương [[Chu Hữu Văn]] nhất. Khi nghĩ mình sắp chết, Hậu Lương Thái Tổ đã phái Vương thị (thêvợ của Chu Hữu Văn) đến Đại Lương để triệu Chu Hữu Văn hồivề kinh. Điều này đã khiến tamngười con trai thứ tửba là Dĩnh vương [[Chu Hữu Khuê]] tức giận và lo sợ, đặtđặc biệt là khi Hậu Lương đồng thời cũng bổ nhiệm Chu Hữu Khuê làm thứ sử Lai châu (萊州, nay thuộc [[Yên Đài]], [[Sơn Đông]]). Chu Hữu Khuê vì thế đã tiến vào hoàng cung và ám sát phụ hoàng, sau đó giữ bí mật về việc hoàng đế băng hà và phái hoạn quan Đinh Chiêu Phổ (丁昭溥) đem thánh chỉ giả nhân danh Thái Tổ lệnh cho Chu Hữu Trinh giết Chu Hữu Văn. Sau khi Chu Hữu Trinh làm theo thánh chỉ [giả], Chu Hữu Khuê tuyên bố Thái Tổ qua đời, đổ tội ám sát cho Chu Hữu Văn. Sau khi tứclên vịngôi, Chu Hữu Khuê bổ nhiệm Chu Hữu Trinh là Khai Phong doãn, Đông Đô lưu thủ.<ref name=ZZTJ268/>
 
Tuy nhiên, Chu Hữu Khuê nhanh chóng khiến quần thần bất mãn do các hành động phù phiếm của mình. Hơn nữa, tin đồn rằng chính Hữu Khuê mới là người giết chết tiênThái đếTổ lan truyền trong quân đội. Không lâu sau đó, phò mã của Thái Tổ là [[Triệu Nham]] và [[Viên Tượng Tiên]] đã bí mật lập mưu lật đổ Chu Hữu Khuê. Triệu Nham báo việc này cho Chu Hữu Trinh, Chu Hữu Trinh đồng ý tham gia vào âm mưu, ông còn phái thuộc hạ thân cận của mình là Mã Thận Giao (馬慎交) đến Thiên Hùng (天雄, trị sở nay thuộc [[Hàm Đan]], Hà Bắc) để thuyết phục Thiên Hùng tiết độ sứ [[Dương Sư Hậu]] cùng tham gia chính biến, Dương Sư Hậu chấp thuận. Chu Hữu Trinh còn thuyết phục các binh sĩ Long Tương quân (龍驤軍) tinh nhuệ khi đó đang ở Đại Lương cũng cùng tham gia vào âm mưu, sau đó chuẩn bị nổi dậy và tiến công kinh đô Lạc Dương. Tuy nhiên, trước khi Chu Hữu Trinh phát động tiến công, Viên Tượng Viên và Triệu Nham đã nổi dậy tại Lạc Dương và giết chết Chu Hữu Khuê. Sau đó, họ đề xuất trao hoàng vị cho Chu Hữu Trinh, Chu Hữu Trinh chấp thuận song cho dời đô đến Đại Lương và tứclên vịngôi tại đó.<ref name=ZZTJ268/>
 
== Trị vì ==
=== Thời kỳ đầu ===
Sau khi tứclên vịngôi, Chu Hữu Trinh cải danh thành Chu Hoàng, rồi Chu Trấn. Ông đã chiêu hàng được tướng [[Chu Hữu Khiên]] (trước đó, vị tướng này khi hay tin Thái Tổ bị ám sát thì đã đem Hộ Quốc (護國, trị sở nay thuộc [[Vận Thành]], Sơn Tây) đầu hàng Tấn).<ref name=ZZTJ268/>
 
Tuy nhiên, việc Chu Hữu Khiên quy phục đã không giảm bớt mối đe dọa từ Tấn, thế lực mà Hậu Lương Thái Tổ đã rất quan ngại trước khi qua đời.<ref name=ZZTJ268/> Chu Trấn cũng phải chống lại hai nước kình định khác là [[Kỳ]] và [[Ngô (Thập quốc)|Ngô]]. Năm 914, Chu Trấn sai tướng Khang Hoài Anh (康懷英) đến đóng quân tại Vĩnh Bình quân (永平, trị sở nay thuộc [[Tây An]], [[Thiểm Tây]]), để chống Kỳ. Trong khi đó, Chu Trấn bổ nhiệm hoàngem đệtrai là Phúc vương [[Chu Hữu Chương]] (朱友璋) làm Vũ Ninh tiết độ sứ (武寧, trị sở nay thuộc [[Từ Châu]], [[Giang Tô]]), thay thế tiết độ sứ [[Vương Ân]] (王殷) do Chu Hữu Khuê bổ nhiệm. Vương Ân lo sợ và đã đầu hàng Ngô. Chu Trấn phái các tướng [[Ngưu Tồn Tiết]] và [[Lưu Tầm]] đi đánh Vũ Ninh, quân Hậu Lương đã đẩy lui quân Ngô của [[Chu Cẩn]], chiếm được trị sở Từ châu của Vũ Ninh,. Vương Ân tự sát.<ref name=ZZTJ269>''Tư trị thông giám'', [[:zh:s:資治通鑑/卷269|quyển 269]].</ref>
 
Năm 915, Dương Sư Hậu qua đời,. doDo Chu Trấn từ lâu đã lo ngại về binh quyền của Dương Sư Hậu, nên mặc dù bề ngoài tỏ vẻ thương tiếc song thực tế là hài lòng. Triệu Nham và Thiệu Tán (邵贊) đã thỉnhđề rằngnghị hãy nhân cơ hội này để làm suy yếu Thiên Hùng quân, nguyên là một quân cát cứ và khó kiểm soát. Chu Trấn chấp thuận, và hạ lệnh cho Thiên Hùng quân chia làm hai quân, ba trong số sáu châu của Thiên Hùng quân được tách ra để hình thành Chiêu Đức quân (昭德, trị sở đặt tại Tương châu (相州), nay thuộc Hàm Đan). Các binh sĩ Thiên Hùng bất mãn vì việc phân chia này nên đã tiến hành binh biến dưới sự lãnh đạo của Trương Ngạn (張彥), giữ tiết độ sứ Hạ Đức Luân (賀德倫) do triều đình Hậu Lương phái đến làm con tin. Chu Trấn phái một hoạn quan là Hỗ Dị (扈異) đi úyvỗ lạovề các binh sĩ Thiên Hùng, song không chấp thuận yêu sách hủy bỏ phân chia Thiên Hùng của Trương Ngạn. Do đó, Trương Ngạn đã quyết định dâng Thiên Hùng quân cho Tấn, Lý Tồn Úc tiến đến Thiên Hùng và nắm quyền kiểm soát quân này. Quân Tấn sau đó liên tục chiến thắng quân Hậu Lương, hai cuộc tập kích của Hậu Lương vào quốc đô Thái Nguyên của Tấn cũng bị đẩy lui. Vào mùa thu năm 916, gần như toàn bộ lãnh thổ ở bờ bắc [[Hoàng Hà]] đã rơi vào tay Tấn. Sĩ khí quân Hậu Lương càng thêm suy sụp khi tại Đại Lương, Lý Bá (李霸) đã lãnh đạo một cuộc binh biến chống lại Chu Trấn, Chu Trấn đích thân dẫn quân trấn thủ cổng hoàng cung, song bộ tướng [[Vương Yến Cầu]] sau đó đã dập tắt cuộc binh biến.<ref name=ZZTJ269/>
 
Trong chiến dịch, thêvợ của Chu Hữu Trinh là [[Trương đức phi]] đã qua đời,. Chu Hữu Trinh từng muốn lập bà làm hoàng hậu, song bà tiênliên tục từ chối do ông chưa tiến hành tế tự thiên địa theo đúng nghi thức.<ref name=ZZTJ269/> Khang vương [[Chu Hữu Kính]] (朱友敬) có dã tâm muốn thay thế Chu Hữu Trinh làm hoàng đế, vì thế đã cố nhân dịp tổ chức tang lễ cho Trương đức phi để ám sát Chu Trấn. Tuy nhiên, Chu Trấn đã kịp biết được âm mưu này và sau khi chạy trốn, ông đã lệnh cho cấm quân giết chết quân phục kích, sau đó xử tử Chu Hữu Kính. Sau sự kiện này, Chu Hữu Trinh chỉ còn tin tưởng Triệu Nham, cũng như cácnhững [[ngoạingười thích]]họ hàng bên bên đằng Trương đức phi là Trương Hán Đỉnh (張漢鼎), Trương Hán Kiệt (張漢傑), Trương Hán Luân (張漢倫) và Trương Hán Dung (張漢融). Ông chỉ nghe lời Triệu Nham và bốn vị ngoại thích5 thíchngười này, bỏ ngoài tai lời của những người khác, bao gồm cả [[Kính Tường]] và [[Lý Chân]]- những người từng rất được Thái Tổ tin cậy.<ref name=ZZTJ269/>
 
Cũng vào năm 917, sau một thời gian từ chối báo cáo về Đại Lương sau khi thất bại dưới tay Lý Tồn Úc,<ref name=ZZTJ269/> Lưu Tầm cuối cùng đã đến Đại Lương yết kiến Chu Hữu Trinh. Chu Hữu Trinh bãi chức thống soái quân sĩ chống Tấn của Lý Tầm, cho [[Hạ Côi]] thay thế,.<ref name=ZZTJ270/> ngườiHạ nàyCô là người đã có công ngăn chặn một cuộc binh biến tại Khánh châu (慶州, nay thuộc [[Khánh Dương]], [[Cam Túc]]) vào năm 916.<ref name=ZZTJ269/> Cũng trong năm đó, theo đề xuất của Triệu Nham, Chu Hữu Trinh chuẩn bị đại lễ tế tự thiêntrời địađất tại Lạc Dương, rời khỏi Đại Lương bất chấp lời khuyên can của Kính Tường. Tuy nhiên, sau khi Chu Hữu Trinh rời khỏi Đại Lương, quân Tấn đã tiến công và chiếm được Dương Lưu (楊劉, nay thuộc [[Liêu Thành]], [[Sơn Đông]]), ở bờ nam Hoàng Hà. Khi tin tức Dương Lưu thất thủ truyền đến Lạc Dương, nó đã khiến cho các quan lại sửng sốt, và xuất hiện các tin đồn rằng Tấn tiếp tục chiếm Đại Lương. Chu Hữu Trinh hoảng loạn và đã quyết định hoãn buổi lễ và trở về Đại Lương để dập tắt các tin đồn. Sau sự kiện này, Kính Tường đã thượngdâng biểu nói về mối quan tâm trong cuộc chiến với Tấn ở phía bắc, và đề xuất trao binh quyền cho mình; Chu Hữu Trinh nghe theo lời của Triệu Nham và bốn vị ngoạihọ thíchTrương nên đã từ chối đề nghị của Kính Tường.<ref name=ZZTJ270/>
 
Năm 918, Lý Tồn Úc tập hợp các tinh binh và quyết định phát động tổng tiến công Hậu Lương. Một thời gian ngắn sau tết năm 919, quân Tấn vượt sông Hoàng Hà và tiến về Đại Lương. Hạ Côi đã chặn quân Tấn tại Hồ Liễu pha (胡柳陂, nay thuộc [[Hà Trạch]], [[Sơn Đông]]). Thoạt đầu, quân Hậu Lương đại thắng trước quân Tấn, song sau đó quân Tấn đã phản công và khiến quân Hậu Lương tổn hại nặng nề, cuộc chiến xét về tổng thể là hòa, có đến 2/3 binh sĩ hai bên thương vong. Một thời gian sau đó, không bên nào dám tiến công đối phương, quân Hậu Lương được mô tả là đã tan rã hoàn toàn đến nỗi phải mất một tháng để tái tổ chức.<ref name=ZZTJ270/>
 
=== Thời kỳ cuối ===
Năm 920, Chu Trấn tức giận trước việc Chu Hữu Khiêm cho con là Chu Lệnh Đức (朱令德) cai quản Trung Vũ (忠武, trị sở nay thuộc [[Vị Nam]], Thiểm Tây),. Chu Hữu Khiêm thấy vậy đã nổi dậy, phảnbỏ Hậu Lương và quy phụctheo Tấn. Chu Trấn phái Lưu Tầm đi đánh Chu Hữu Khiêm, song Lưu Tầm chiến bại trướcbị tướng Tấn là [[Lý Tồn Thẩm]] và [[Lý Tự Chiêu]] đánh bại. Sau đó, Chu Trấn nghi ngờ rằng Lưu Tầm cố ý không đánh bại Chu Hữu Khiêm (do Tầm và Hữu Khiêm là thông gia), nên đã hạ độc giết Lưu Tầm.<ref name=ZZTJ271>''Tư trị thông giám'', [[:zh:s:資治通鑑/卷271|quyển 271]].</ref>
 
Năm 921, một đồng minh lớn của Lý Tồn Úc là [[Triệu (Ngũ đại)|Triệu vương]] [[Vương Dung]] đã bị dưỡngcon tửnuôi là [[Trương Văn Lễ|Trương Đức Minh]] ám sát,. Trương Đức Minh đoạt quyền kiểm soát nước Triệu và cải danh lại thành Trương Văn Lễ. Thoạt đầu, Trương Văn Lễ giả bộ tiếp tục quy phục Lý Tồn Úc, song lại lo sợ rằng Lý Tồn Úc sẽ có hành động chống lại mình, vì thế Trương Văn Lễ đã bí mật thượng lượng với Hậu Lương và [[nhà Liêu|Khiết Đan]] để chuẩn bị đánh Tấn. Kính Tường chỉ ra rằng đây là một cơ hội tốt để phản công chống Tấn, thuyết phục đưa quân cứu viện Trương Văn Lễ, song Triệu Nham và bốn vị ngoạihọ thíchTrương lại chống đối vì cho rằng quân Hậu Lương cần bảo vệ lãnh thổ Hậu Lương. Chu Trấn rốt cuộc đã không cứu viện Trương Văn Lễ, Trương Văn Lễ sau đó qua đời và con là [[Trương Xử Cẩn]] kế nhiệm,. Xử Cẩn tiếp tục kháng Tấn cho đến cuối năm 922 song thất bại,. Lý Tồn Úc tônthôn tính lãnh thổ nước Triệu. Khi Tấn đánh Triệu, Bắc diện chiêu thảo sứ [[Đái Tư Viễn]] của Hậu Lương đã thừa cơ tiến công Vệ châu (衛州, nay thuộc [[Bộc Dương]], Hà Nam) tập kích quân Tấn đồn trú, chiếm được châu này; Hậu Lương lại đứng chân trên bờ bắc Hoàng Hà, khôi phục sĩ khí chiến đấu.<ref name=ZZTJ271/>
 
Sau khi Lý Tự Chiêu tửbị chiếnchết trong chiến dịch diệt Triệu vào năm 922, con ông là [[Lý Kế Thao]] đã tự ý đoạt lấy Chiêu Nghĩa quân (昭義, trị sở nay thuộc [[Trường Trị]], Sơn Tây) do phụ thâncha cai quản,. cònCòn Lý Tồn Úc thì không muốn để tiến hành một chiến dịch chống Lý Kế Thao nên đã bổ nhiệm Lý Kế Thao là 'lưu hậu', đổi tên quân thành An Nghĩa do [[húy kỵ]] Lý Tự Chiêu.<ref name=ZZTJ271/> Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 923, do lo sợ rằng Lý Tồn Úc dù sao cũng sẽ có hành động chống lại mình, Lý Kế Thao đã dâng quân hàng Hậu Lương. Chu Trấn bổ nhiệm Lý Kế Thao làm tiết độ sứ và đổi tên quân thành Khuông Nghĩa.<ref name=ZZTJ272/>
 
Ngay sau đó, Lý Tồn Úc xưng đế, lập ra nhà [[Hậu Đường]], sau đó đã phái [[Hậu Đường Minh Tông|Lý Tự Nguyên]] suấtxuất quân tập kích Thiên Bình quân (天平, trị sở nay thuộc [[Thái An, Sơn Đông|Thái An]], Sơn Đông) của Hậu Lươmg ở bờ nam Hoàng Hà, chiếm được phủ thành Vận châu (鄆州). Lo sợ và tức giận trước việc Vận châu thất thủ, Chu Hữu Trinh giáng chức Đái Tư Viễn và trao quyền cho [[Vương Ngạn Chương]] thống soái quân lĩnh chống Hậu Đường. Vương Ngạn Chương nhanh chóng tiến công và chiếm được thành biên giới Đức Thăng (德勝, nay thuộc Bộc Dương), mục đích là nhằm cắt đường tiếp tế cho Vận châu. Tuy nhiên, trong các trận chiến kế tiếp với Lý Tồn Úc, Vương Ngạn Chương đã không quyết đoán, ngoài ra ông còn mâu thuẫn với Triệu Nham và bốn vị ngoạihọ thíchTrương. Năm người này do đó đã gièm pha Vương Ngạn Chương trước mặt Chu Hữu Trinh,. Chu Hữu Trinh sau đó loại bỏ Vương Ngạn Chương và cho [[Đoàn Ngưng]] thay thế. Trong khi đó, Chu Hữu Trinh cũng cho phá [[đê]] Hoàng Hà tại Hoạt châu (滑州, nay thuộc [[An Dương (địa cấp thị)|An Dương]], Hà Nam), khiến khu vực bị [[Lũ lụt|ngập lụt]], mục đích là để cản trở quân Hậu Đường tiến sâu hơn nữa.<ref name=ZZTJ272/>
 
[[Khang Diên Hiếu]] sau đó đã đào ngũ sang Hậu Đường, tiết lộ kế hoạch tác chiến của Đoàn Ngưng cho hoàng đế Hậu Đường. Lý Tồn Úc đã quyết định tiến về Vân châu hợp binh, sau đó đánh bại quân Hậu Lương tại Trung Đô (中都, nay thuộc [[Tế Ninh]], Sơn Đông), rồi tiến thẳng về Đại Lương đang không được phòng bị. Do quân của Đoàn Ngưng bị chặn lại ở bờ bắc Hoàng Hà và không thể về ứng cứu, Chu Hữu Trinh nhận thấy tình hình vô vọng. Chu Toàn Trung đã lệnh cho đô tướng Hoàng Phủ Lân giết mình; Hoàng Phủ Lân ra tay và sau đó cũng tự sát,. Hậu Lương diệt vong.
 
Lý Tồn Úc lệnh cho Hà Nam doãn thu táng Chu Hữu Trinh, song giữ thủ cấp của Chu Hữu Trinh trong Thái Xã. Sau này, [[Hậu Tấn Cao Tổ]] Thạch Kính Đường cho phép thân thuộc và cựu quan lại cũ thu táng thủ cấp của các "tội nhân" trong Thái Xã Hậu Đường,. tảTả vệ thượng tướng quân An Sùng Nguyễn thu táng thủ cấp của Chu Hữu Trinh.<ref name=HFD10>''Cựu Ngũ Đại sử'', [[:zh:s:舊五代史/卷10|quyển 10]].</ref>
 
== Tham khảo ==