Khác biệt giữa bản sửa đổi của “An Nam tứ đại khí”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
'''An Nam tứ đại khí'''<ref>Tứ đại khí</ref>, là bốn kỳ quan, bốn vật quốc bảo và là bốn công trình nghệ thuật bằng đồng nổi tiếng của văn hóa thời [[triềuNhà Lý|Lý]], [[triềuNhà Trần|Trần]] bao gồm:
* [[Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm]]<ref>Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm</ref> ([[Chùa Quỳnh Lâm (định hướng)|Chùa Quỳnh Lâm]], [[Đông Triều]], [[Quảng Ninh]]);
* [[Tháp Báo Thiên]] ở [[Thăng Long]] ([[Hà Nội]])
* [[Chuông Quy Điền]] (chuông ruộng rùa) ở chùa Diên Hựu ([[chùa Một Cột]]), Hà Nội
Dòng 6:
Mặc dù là những vật quốc bảo song khi rơi vào tay giặc, tứ đại khí cái bị cướp, cái bị phá đi không còn hình dáng ban đầu.
==Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm==
[[Chùa Quỳnh Lâm (định hướng)|Chùa Quỳnh Lâm]] có hai pho tượng lớn nổi tiếng được đúc vào hai thời kỳ khác nhau. Một pho thời Lý do sư [[Lý Quốc Sư|Nguyễn Minh Không]] cho đúc, và pho thứ hai thời Trần do thiền sư [[Pháp Loa]] tạo dựng. Pho tượng được liệt trong Thiên Nam tứ đại khí theo nhiều ý kiến có lẽ là pho được đúc vào thời Lý. Theo lịch sử thì nhà sư có công xây dựng chùa Quỳnh Lâm đầu tiên là sư [[Lý Quốc Sư|Minh Không]]. Truyền thuyết kể rằng, khi đúc pho tượng khổng lồ ở [[chùa Quỳnh Lâm (định hướng)|chùa Quỳnh Lâm]], sư [[Lý Quốc Sư|Minh Không]] đã dùng một cái túi lớn để thu gom đồng ở [[Trung Quốc]] đem về nước đúc nên các vật kim loại lớn. Theo các tài liệu còn lại thì pho tượng Phật Di Lặc ở [[chùa Quỳnh Lâm (định hướng)|chùa Quỳnh Lâm]] thời Lý cao 6 trượng (một trượng xấp xỉ 3,3 m, tức là pho tượng cao khoảng 20 m). Các tượng đồng cổ ở Việt Nam được coi là lớn nhất hiện nay: Tượng thánh Trấn Vũ [[đền Quán Thánh]], Hà Nội đúc năm 1667 cao 3,7 m nặng 4 tấn; tượng phật A Di Đà [[chùa Ngũ Xã]], Hà Nội đúc năm 1949 - 1952 cao 3,95 m, nặng hơn 10 tấn; tượng A Di Đà lớn nhất còn lại ở [[Quảng Ninh]] ở chùa Nhuệ Hổ, Đông Triều cao 1,45 m, đúc thời Lê. Chỉ có điều không còn cứ liệu để ước định tượng nặng bao nhiêu. Pho tượng lớn đến nỗi người ta phải xây dựng một tòa điện cao 7 trượng (khoảng 23,5 m) để đặt tượng. Chính vì chiều cao, độ lớn của tượng và điện chứa tượng nên tục truyền rằng, đứng phía nam huyện [[Đông Triều]], cách chùa Quỳnh Lâm ước chừng 10 dặm, vẫn còn thấy nóc điện che sát đầu pho tượng. Trong dân gian còn lưu truyền câu ca: Nức tiếng Quỳnh Lâm cõi xứ Đông - (....) - Tháp cao chín đợt màu mây ám - Chùa rộng trăm gian gác ngựa hồng - Trước điện thông reo cùng trúc hóa - Trong am khánh đá với chuông đồng... Chắc hẳn trong câu ca này hàm ý đến tòa điện đặt pho tượng khổng lồ trên. Sau đó không rõ tượng mất khi nào, có thể tượng bị mất cùng với ba thứ kim khí lớn khác khi quân Minh xâm lược nước ta. Ý kiến khác cho rằng, tượng bị mất từ khi quân Nguyên Mông sang xâm chiếm nước ta bởi vì sau đó sư Pháp Loa cho đúc một pho tượng lớn tương tự.
 
Pho tượng Phật lớn thứ hai của Quỳnh Lâm cũng là tượng Di Lặc được thiền sư Pháp Loa - ông tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm, cho đúc. Tượng được đúc xong từ năm 1327. Năm 1328, nhân dịp vua Trần Minh Tông đến thăm chùa, sư Pháp Loa đã tâu xin cho kéo tượng từ điện lên bảo tọa để dát vàng. Văn Huệ Vương Trần Quang Triều, chủ soái của Bích Động thi xã và người chị ruột, công chúa Thượng Trân, vợ vua Trần Anh Tông đã cúng vào chùa 900 lượng vàng để đúc tượng. Tượng cũng bị mất vào thế kỷ 15 khi quân Minh sang xâm chiếm nước ta, chúng đã phá tượng để đúc súng đạn. Truyền thuyết dân gian nói rằng, giặc mang tới 24 bễ đến định thổi đồng đúc đạn nhưng thổi không được, còn bia chùa thì ghi tượng trầm trầm tại hạ (chìm dần xuống đất).