Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Antiochos II Theos”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 30 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q222930 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 20:
| spouse 5 =
| spouse 6 =
| issue =[[Seleukos II Kallinikos|Seleucus II Callinicus]]<br />[[Antiochos Hierax|Antiochus Hierax]]<br />Apama<br /> [[Stratonice của Cappadocia]] <br /> [[Laodice (vợ Mithridates II của Pontos)|Laodice]].
| royal house = Nhà Seleukos
| dynasty =
| royal anthem =
| father =[[Antiochos I Soter]]
| mother =[[Stratonike của Syria|Stratonice của Syria]]
| birth_date = 286 TCN
| birth_place =
Dòng 36:
'''Antiochos II Theos''' ([[tiếng Hy Lạp]]: '''Αντίοχος Β' Θεός''', 286 TCN &ndash; 246 TCN) là vị vua thứ ba của [[vương quốc Seleukos]] thời [[Hy Lạp hóa]], cai trị từ năm 261 dến năm 246 TCN. Ông là con trai của Antiochos và công chúa [[Stratonike của Syria|Stratonike]], con gái của [[Demetrios I của Macedonia|Demetrios Poliorketes]]; và thừa kế ngôi vị từ vua cha [[Antiochos I Soter]] vào mùa đông 262-261 TCN.
 
Di sản mà ông được kế thừa bao gồm cả việc tiếp nối cuộc chiến tranh với Ai Cập, cuộc [[chiến tranh Syria lần thứ hai]] đã xảy ra chủ yếu dọc theo bờ [[Tiểu Á]] và với sự tham gia của các vị vua chuyên chế và các thị quốc ở Tiểu Á. Antiochos cũng thực hiện một số cố gắng để đặt chân lên [[Thracia|Thrace]]. Trong suốt cuộc chiến, ông đã xưng hiệu là ''Theos'' (tiếng Hy Lạp: Θεός, “Chúa”) được nhân dân Milesia xưng tụng vì đã giết bạo chúa [[Timarchus của Miletus|Timarchus]].<ref>[[Appianus]], ''Syriaca'', 65.</ref>
 
Trong suốt thời gian vua Antiochos tiến hành cuộc chiến tranh chống lại Ai Cập, [[Andragoras]], thổng trấn do Seleukos lập lên ở [[Người Parthia|Parthia]] tuyên bố độc lập. Theo đoạn trích dẫn từ tác phẩm của Justin của [[Pompeius Trogus]], ở [[Bactria]], phó vương của ông, [[Diodotos I của Bactria|Diodotos]], cũng nổi loạn vào năm 255 TCN và thành lập vương quốc Hy Lạp - Bactria, mà xa hơn là xâm lược Ấn Độ vào năm 180 TCN để hình thành một vương quốc Hy Lạp - Ấn Độ (180 TCN - 1 CN). Sau đó khoảng năm 238 TCN, [[Arsaces I của Parthia|Arsaces]] đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy lật đổ Andragoras để thành lập [[đế quốc Parthia]]. Những sự việc trên đã cắt đứt sự quan hệ của Hy Lạp với Ấn Độ.
 
Cũng vào khoảng thời gian này, Antiochos đã kí kết một hiệp ước hòa bình với [[Ptolemaios II của Ai Cập]], kết thúc cuộc [[chiến tranh Syria lần thứ hai]]. Antiochos đã bỏ vợ mình là Laodice, đày bà tới [[Ephesus]]. Để duy trì hiệp ước, ông đã kết hôn với con gái của Ptolemaios II, [[Berenice (nữ hoàng Seleukos)|Berenice]] và nhận được của hồi môn rất lớn.
Dòng 47:
 
== Mối quan hệ với Ấn Độ ==
Antiochos <ref>Jarl Charpentier, "Antiochus, King of the Yavanas" ''Bulletin of the School of Oriental Studies, University of London'' '''6'''.2 (1931:303-321) argues that the Antiochus mentioned was unlikely to be Antiochus II, during whose time relations with India were broken by the Parthian intrusion and the independence of Diodotus in Bactria, and suggests instead the half-Iranian [[Antiochos I Soter|Antiochus I]], with stronger connections in the East.</ref> đã được đề cập đến trong [[Sắc lệnh của vua Asoka]] , và được quy cho là một trong những chư hầu của đế chế phật giáo Ấn Độ của Ashoka, mặc dù không có sử gia phương Tây nào đề cập đến chuyện này.
 
==Chú thích==