Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngũ Hồ thập lục quốc”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 23:
=== Người Tiên Ty ===
{{bài chính|Tiên Ti}}
Là một tộc [[Người Đông Hồ|Đông Hồ]]. Cuối thời Đông Hán, sau khi người bắc Hung Nô dời về phía tây thì người Tiên Ty lấn gần hết đất cũ của Hung Nô. Tới giữa thế kỷ 2, người Tiên ty khống chế một vùng rộng lớn từ khu vực [[Liêu Hà]] tới [[
=== Người Chi (hay Đê) ===
Dòng 43:
Do khủng hoảng nhân sự, các vị vương nhà Tấn phải dùng tới các tướng sĩ người “Hồ” và họ nhân đó phát triển thế lực. Một bộ tướng của Thành Đô vương [[Tư Mã Dĩnh]] (tham chiến bát vương) là [[Lưu Uyên]]<ref>Vốn có tên là Lưu Bang, nhưng vì trùng tên với Hán Cao Tổ nên sử gọi bằng tên tự là Uyên</ref> đã lớn mạnh trong lúc các sứ quân họ Tư Mã giết hại lẫn nhau. Khi loạn bát vương chấm dứt, Tư Mã Dĩnh đã bị giết; trong 8 vương chỉ còn lại Đông Hải vương [[Tư Mã Việt]] nắm quyền trong triều.
Lưu Uyên phát triển thành cánh quân độc lập. Năm 304, Uyên xưng làm vua, lập ra
Tháng 11 năm 306, Tư Mã Việt giết Huệ Đế [[Tấn Huệ Đế|Tư Mã Trung]], lập Hoài Đế [[Tư Mã Xí]] lên thay. Nhà Tấn không dẹp nổi sự làm loạn của các ngoại tộc người Hồ tràn lan khắp
Năm 310, Lưu Uyên chết, con là Vũ Đế [[Lưu Thông]] lên thay. Năm 311, Lưu Thông tấn công kinh thành Lạc Dương, bắt sống Tấn Hoài Đế và nhiều triều thần nhà Tấn. Trong cuộc tấn công của Lưu Thông, quân Tấn thất bại nhanh chóng do không đủ mạnh và các sứ quân nhà Tấn đều chỉ nhân loạn lạc để phát triển cơ đồ riêng, không
Một quý tộc nhà Tấn là Lang Nha vương Tư Mã Tuấn (hay Duệ - cháu nội Tấn Vũ Đế) tập hợp lực lượng ở Giang Đông, tự xưng làm vua, tức là [[Tấn Nguyên Đế]], trở thành người kế tục Tấn Mẫn Đế. Do nhà Tấn của Tư Mã Tuấn đóng đô ở [[Kiến Khang]], phía đông so với nhà Tấn của Tư Mã Viêm nên sử gọi là nhà Đông Tấn (317-420).
== Ngũ Hồ hỗn chiến ==
Dòng 60:
Một bộ tướng của cha con Lưu Uyên - Lưu Thông là [[Thạch Lặc]], người tộc Yết, trong quá trình giúp [[Hán Triệu]] diệt nhà Tấn, đã tranh thủ phát triển thế lực riêng.
Sau khi diệt được Tây Tấn, Lưu Thông không chú tâm đến chính sự, chỉ chơi bời hưởng lạc
Cùng lúc Lưu
Vì giới thống trị chính trị
=== Tiền Lương - Tiền Yên - Bắc Đại ===
Trong khi Ngũ Hồ xâu xé đất đai
Dòng họ Trương Quỹ cai trị Tây Lương rất được lòng dân, truyền được 9 đời kéo dài hơn 70 năm, một thời gian dài trong số 16 nước thời đó.
Dòng 73:
Trong khi đó tại vùng phía bắc và đông bắc có đông người Tiên Ty sinh sống, trong đó có họ tộc Mộ Dung và họ Thác Bạt lớn mạnh.
Họ Thác Bạt trấn trị phía bắc, xen lẫn với người Hung Nô. Cuối thời Tây Tấn, thủ lĩnh [[Thác Bạt
Ở phía đông bắc, họ Mộ Dung cũng nhân lúc hai nước Triệu hỗn chiến và nhà Tấn nép xuống phía nam để phát triển lực lượng. Năm 337, [[Mộ Dung
=== Hậu quả từ sự tan rã của Hậu Triệu: Tiền Tần ===
Dòng 82:
Sau khi diệt Tiền Triệu, Hậu Triệu trở thành nước lớn nhất miền bắc, tuy chưa diệt được Thành Hán, Tiền Yên và Tiền Lương nhưng vẫn hay can thiệp vào Bắc Đại. [[Thạch Lặc]] rất chú trọng xây dựng chính quyền, tiếp thu văn minh Hán tộc. Năm 333, Thạch Lặc chết, quyền hành rơi vào tay em Lặc là [[Thạch Hổ]]. Hổ giết hết con cháu Lặc, tự xưng làm vua. Nhưng Hổ là bạo chúa, tàn sát rất nhiều quan lại rồi cả con cháu của mình. Ông còn xây dựng tràn lan, cướp cả vợ con người khác để hoang dâm vô độ, nhân dân chết đói rất nhiều.
Do vậy các dân tộc nổi dậy phản kháng không ngừng. Các con trai Thạch Hổ tranh quyền. Thái tử [[Thạch Tuyên]] giết [[Thạch Thao (Hậu Triệu)|Thạch Thao]], Thạch Hổ giết Thạch Tuyên. Năm 349, Thạch Hổ chết, chính quyền rơi vào tay con nuôi Hổ là [[Nhiễm Mẫn|Thạch Mẫn]] (vốn tên là Nhiễm Mẫn, là người Hán). Mẫn giết hết con cháu Thạch Hổ, tự lập làm vua, đặt tên nước là Nguỵ, tức là nước [[Nhiễm Ngụy|Nhiễm Nguỵ]]. Một người trong hoàng tộc Hậu Triệu là [[Thạch Chi]] tự lập ở Tương Quốc. Nhiễm Mẫn đánh bại bức hàng tướng của Chi là [[Lưu Hiển]], sai Lưu Hiển đánh giết Thạch Chi. Hậu Triệu mất.
Tuy nhiên Nhiễm Mẫn hung hăng không được bao lâu. Có trong tay binh hùng tướng mạnh, Nhiễm Mẫn diệt Hậu Triệu. Năm 352, Nhiễm Mẫn mang quân đánh Tiền Yên, đánh chiếm hơn nửa đất Yên, sắp thống nhất miền bắc. Biết Nhiễm Mẫn kiêu ngạo chủ quan khinh địch, Yên vương [[Mộ Dung Tuấn]] dùng kế bắt sống được Mẫn chém chết. Nước Nhiễm Ngụy tồn tại chỉ hơn 2 năm.
Năm 347, quyền thần Đông Tấn là [[Hoàn Ôn]] mang quân
Khi Hậu Triệu tan rã, một loạt các tù trưởng các bộ tộc người Chi, người Khương ra sức tự lập. Năm 350, một tướng cũ của Hậu Triệu, người tộc Chi (hay Đê) là [[Bồ Hồng]] chiếm giữ [[Quan Trung]], lập ra nước [[Tiền Tần]], đổi ra họ Phù. Khi đó Hậu Triệu chưa mất hẳn, Phù Hồng bị tướng Hậu Triệu là [[Ma Thu]] đầu độc chết, con là [[Phù Kiện]] lên thay.
Năm 351, đại tướng [[Hoàn Ôn]] của Đông Tấn sau khi diệt Thành Hán lại mang quân đánh Tiền Tần. Phù Kiện bỏ [[
Tạm yên mặt nam, Phù Kiện tấn công về phía đông, tranh giành đất cũ của Hậu Triệu và Nhiễm Ngụy với Tiền Yên. Về cơ bản, sau năm 352,
Năm 355, Phù Kiện chết, con là [[Phù Sinh]] lên thay. Phù Sinh sinh ra đã chỉ có 1 mắt, rất tàn
Nhờ chính sách hòa hợp dân tộc, thu hút nhân tài người Hán, Tiền Tần dưới tay Phù Kiên lớn mạnh rất nhanh. Năm 371, Kiên đánh bắt sống vua Tiền Yên là [[Mộ Dung Vĩ]]<ref>Sau này Vĩ bị giết</ref>. Tới năm 376, bức hàng nước Tây Lương của [[Trương Thiên Tích]]. Sau đó, nhân khi Bắc Đại có tranh chấp nội bộ, Phù Kiên diệt Bắc Đại, chia đất làm hai. Về cơ bản, lần đầu tiên Phù Kiên thống nhất toàn miền bắc Trung Quốc kể từ năm 304.
== Vai trò của Đông Tấn ==
Dòng 105:
{{bài chính|Tổ Địch}}
Khi nhà [[Nhà Tấn|Tây Tấn]] mới mất, nhiều thành trì phía bắc vẫn trong tay các tướng trung thành với nhà Tấn. phía nam, một bộ phận tướng lĩnh, điển hình là [[Tổ Địch]], rất tha thiết phối hợp với các tướng phía bắc tiến hành bắc phạt để thu phục
Nhưng vua [[Nhà Tấn|Đông Tấn]] và đại đa số các địa chủ miền nam không muốn chiến tranh, do đó không cấp quân và vũ khí, chỉ cho Tổ Địch một ít lương thực. Tổ Địch vượt
Trong vòng 7-8 năm từ năm 323, quân Tổ Địch tấn công vào quân
Không lâu sau đó các tướng phía bắc như [[Vương Tuấn (cuối Tây Tấn)|Vương Tuấn]], [[Lưu Côn]], [[Lý Củ]] lần lượt bị quân Ngũ Hồ đánh bại, miền bắc mất hoàn toàn.
==== Hoàn Ôn ====
Dòng 118:
Tuy không thành công, nhưng ý chí chống Ngũ Hồ của Tổ Địch, Lưu Côn đã trở thành những tấm gương cho tướng sĩ thế hệ sau các ông noi theo.<ref>Về sau Thừa tướng Hoàn Ôn vẫn thường tự nhận là giống Lưu Côn</ref>
Sau Tổ Địch, một thời gian dài Đông Tấn cố thủ ở miền nam không phát binh đánh miền bắc. Mãi tới khi Hoàn Ôn cầm quyền trong triều, việc bắc phạt mới được chú trọng. Là người có tài và quyết đoán, Hoàn Ôn
Năm 351, ông lại tiến quân đánh [[Tiền Tần]] của Phù Kiện nhưng đường xa bị thiếu lương nên phải rút về.
Năm 354, Hoàn Ôn làm trấn thủ Kinh châu lại cất quân bắc phạt đánh Phù Kiện nước Tiền Tần. Nhân dân người Hán thấy quân của Hoàn Ôn đều mừng rỡ, mang rượu thịt ra đón, nhưng các địa chủ ở gần
Do mấy lần bắc phạt không thành, uy thế trong triều của Hoàn Ôn bị giảm sút. Họ Vương, họ Tạ nhân dịp ông già yếu, đã ngăn cản việc đoạt ngôi nhà Tấn của ông năm 372.
=== Đại chiến Phì Thuỷ ===
Hoàn Ôn mất, [[Tạ An]] nắm quyền. Tạ An tỏ ra là người mềm mỏng hơn Hoàn Ôn, không hiếp chế vua Tấn.
Lúc đó, Tần vương Phù Kiên thôn tính toàn bộ miền bắc, huy động 100 vạn quân gồm nhiều sắc tộc Hồ và cả [[người Hán]] đi đánh miền nam, bất chấp sự phản đối của nhiều văn thần. Phù Kiên chủ quan kiêu hãnh nói rằng, quân Tần chỉ cầm ném roi ngựa xuống
Tướng tiên phong là [[Phù Dung (Tiền Tần)|Phù Dung]] được lệnh cầm 27 vạn quân tiên phong đi trước. Tạ An tiến cử cháu là [[Tạ Huyền]] với [[Tấn Hiếu Vũ Đế]] Tư Mã Diệu làm tướng, mang 8 vạn quân ra đóng ở Lạc Giản đón quân Tiền Tần.
Khi hai bên sắp đối trận, Phù Kiên đã mắc sai lầm là tin tưởng vào hàng tướng người Hán của Đông Tấn mới hàng là [[Chu Tự]], sai Tự đi dụ hàng Đông Tấn. Chu Tự còn nhớ Đông Tấn, nên mang hết tình hình Tiền Tần tiết lộ cho Tạ Huyền, khuyên nên chủ động đánh quân Tần trước khi đại quân 100 vạn kịp họp đông đủ. Tự còn hẹn làm nội ứng cho quân Tấn.
Lúc đó Phù Dung đang án ngữ sông Phì. Tạ Huyền bèn sai người nói với Phù Dung xin quân Tần tạm rút để quân Tấn qua sông quyết chiến. Phù Kiên cũng muốn lợi dụng quân Tấn qua một nửa sẽ đánh úp nên đồng ý rút lui một đoạn.
Dòng 153:
Thực ra, nguy cơ tái chia cắt đã tồn tại ngay khi Phù Kiên thống nhất, vì trong hàng ngũ tướng sĩ của ông, có nhiều người dị tộc được ông thu phục, đã manh tâm ly khai.
Khi cầm đại quân xuống phía nam, Phù Kiên đã giao cho tướng [[Lã Quang]] đi dẹp các nước thiểu số phía tây thuộc nước Tiền Lương cũ. Dẹp xong vùng Tây Lương, Quang nhân Phù Kiên bại trận bèn cắt đất Lương xưng làm Lương vương, lập ra nước [[Hậu Lương]] (384).
Năm sau, một thủ lĩnh người Tiên Ty khác là
Ngay năm 383, các tướng họ Mộ Dung, con cháu nước Tiền Yên cũ, đã tách riêng khỏi đại quân Tiền Tần tháo chạy về phía bắc, lập lực lượng riêng chống lại Phù Kiên. Ngay trong hàng ngũ các tướng họ Mộ Dung cũng chia cắt và không thần phục nhau. Con Tiền Yên vương Mộ Dung Tuấn là [[Mộ Dung Thùy]] lập ra nước [[Hậu Yên]], một tướng khác là [[Mộ Dung Xung]] chiếm vùng Sơn Tây lập ra nước [[Tây Yên]].
Năm sau, một bộ tướng người Khương, cũng từng được Phù Kiên cho hàng không giết trong khi thống nhất phương bắc là
Dòng dõi nước Bắc Đại cũ là [[Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế|Thác Bạt Khuê]], được một số cựu thần trung thành, nhân khi thiên hạ đại loạn, đón lập làm vua, tái lập nước Bắc Đại, đến năm 386 đổi tên là Nguỵ, sử gọi là [[Bắc Ngụy|Bắc Nguỵ]].
Dòng 169:
Mộ Dung Thùy nắm trong tay lực lượng khá mạnh cũ của Tiền Tần, nên nhanh chóng phát triển nước Hậu Yên thành nước lớn, đóng đô ở Trung Sơn.
Hai nước Tây Yên và Hậu Tần liền kề với đất Tiền Tần nên xung đột xảy ra ác liệt. Năm 385, Phù Kiên bị quân Tây Yên của Mộ Dung Xung cũng kéo đến đánh Tiền Tần để báo thù họa vong quốc năm 371, vây đánh ở
Chính trong nội bộ các quốc gia ly khai Tiền Tần cũng vô cùng rối ren. Nước Tây Yên từ năm 384 đến 386 liên tục đổi chủ, họ Mộ Dung chém giết lẫn nhau. Cuối cùng, năm 386, [[Mộ Dung Vĩnh]] giành được ngôi vua. Nhưng lúc đó Tây Yên đã suy yếu, bị mất
Năm 386, nghe tin vua Tiền Tần là Phù Phi bị giết, cháu họ của Phù Kiên là [[Phù Đăng]] được lập làm vua. Các vua Tiền Tần nối đời kế tục nhau chiến tranh với Hậu Tần của
Hậu Tần diệt được Tiền Tần, phát triển thành nước lớn phía tây. Trong khi đó, Hậu Yên vương Mộ Dung Thùy không muốn họ tộc Mộ Dung bị chia rẽ, bèn mang quân đánh Tây Yên. Năm 394, Mộ Dung Thùy giết được Mộ Dung Vĩnh, diệt nước Tây Yên. Hậu Yên cũng trở thành nước lớn. Về cơ bản, Hậu Tần và Hậu Yên đóng ở vị trí như Tiền Tần và Tiền Yên trước đây.
==== Hai nước Yên mới ====
Tuy nhiên, cục diện đó lập tức bị phá vỡ. Nước Ngụy của Thác Bạt Khuê nhanh chóng lớn mạnh, cất quân nam tiến, đánh Hậu Yên. Quân Yên không chống nổi, thái tử [[Mộ Dung Bảo]] liên tục bị thua trận. Mộ Dung Thùy phải tự tay cầm quân tạm đẩy lui được quân Nguỵ, nhưng không lâu sau thì già yếu mà mất (396).
Quân Ngụy lại nam tiến, lấy đất Hậu Yên như tằm ăn lá dâu. Vùng Hà Nam, Hà Bắc bị quân Ngụy chiếm. Hậu Yên rút lên phía bắc, chỉ bao gồm đất của [[Yên (nước)|nước Yên]] cổ thời [[Chiến Quốc]] xưa kia. Cùng lúc đó nội bộ Hậu Yên lại xảy ra tranh đoạt, chém giết lẫn nhau, khiến liên tiếp chỉ trong chưa đầy 10 năm, các vua [[Mộ Dung Bảo]] (398), [[Mộ Dung Thịnh]] (401), [[Mộ Dung Hy]] (407) đều bị giết. Một người con nuôi của Mộ Dung Bảo là [[Cao Vân]] giết Hy làm vua, nhưng không lâu sau bị quyền thần giết chết (409). Một đại thần người Hán là [[Phùng Bạt]] được lập lên ngôi, đổi quốc hiệu là [[Bắc Yên (Ngũ Hồ)|Bắc Yên]], vì khi đó nước Yên nằm ở phương bắc, để phân biệt với nước Nam Yên.
Khi Hậu Yên bị Ngụy xâm chiếm, một người con của Mộ Dung Thùy là [[Mộ Dung Đức]] bỏ chạy về vùng Sơn Đông, bị tách khỏi lực lượng của Mộ Dung Bảo, không thể liên hệ được. Nghe tin Mộ Dung Bảo bị giết (398), Đức bèn chiếm lấy vùng Hoài Bắc, giáp với Đông Tấn, xưng làm Nam Yên vương. Trên thực tế Nam Yên và Bắc Yên đều rất nhỏ bé, không có đủ thực lực để tái lập sự hùng mạnh của Tiền Yên.
==== Chia nhỏ Hậu Lương ====
Tại nước Hậu Lương, sau khi vua sáng lập Lã Quang chết (399), nội bộ cũng lục đục, những người trong họ tranh nhau quyền, giết hại lẫn nhau. Các bộ tộc lân cận thừa cơ ly khai, chia cắt nước Hậu Lương lớn thành 4 nước nhỏ: người tộc Hung Nô là
Tới năm 403, cháu Lã Quang là [[Lã Long]] bị vua Hậu Tần là
=== Cá lớn nuốt cá bé ===
Chiến tranh sinh tồn giữa Đông Tấn và Ngũ Hồ vẫn ác liệt. Năm 407, hậu duệ của một tộc người Hung Nô, con của [[Lưu Vệ Thần]] - thủ lĩnh người Hung Nô bị Thác Bạt Khuê đánh bại khi dựng nước Ngụy năm 386 - tên là Lưu Bột nổi dậy ở miền bắc, đổi họ là Hách Liên<ref>Tiếng Hung Nô nghĩa là "trời"</ref>. [[Hách Liên Bột
Năm 410, tướng Đông Tấn là [[Lưu Dụ]] diệt nước [[Nam Yên]] của
Năm 414, vua Tây Tần là
Năm 417, tướng Đông Tấn là [[Lưu Dụ]] lại bắc tiến, chiếm
Năm 420, Lưu Dụ cướp ngôi [[nhà Tấn]], lập ra nhà Tống, sử gọi là [[Lưu Tống]].
Năm 421, vua [[Bắc Lương]] là
Như vậy tới năm 421, trên bản đồ phía bắc chỉ còn các nước: Bắc Nguỵ, Bắc Yên, Hạ, Bắc Lương, Tây Tần.
Năm 431, vua Hạ là [[Hách Liên Định]] mang quân diệt [[Tây Tần]]. Nhưng cùng năm 431, vua Bắc Ngụy là [[Bắc Ngụy Thái Vũ Đế|Thái Vũ Đế Thác Bạt
Năm 436, Bắc Ngụy đánh Bắc Yên, bắt vua Yên là [[Phùng
Toàn thể phương bắc được thống nhất trong tay Bắc Ngụy. Ở miền nam trong tay nhà Lưu Tống, sử gọi thời kỳ các triều đại nam và bắc nối nhau cai trị hai miền là [[Nam-Bắc triều (Trung Quốc)|Nam Bắc triều]]. Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt.
Dòng 214:
Tính cả các vua nhà Tấn, thời Ngũ Hồ thập lục quốc có tới gần 150 vua xưng đế hoặc xưng vương. Chiến tranh xảy ra liên miên trên trên hầu khắp miền bắc Trung Quốc. Miền nam tuy không nhiều chiến sự như miền bắc nhưng cũng gặp phải loạn do các tướng gây ra và sau đó là khởi nghĩa nông dân.
Không giống như những thời đại loạn lạc [[Chiến Quốc]] trước đó hay [[Ngũ Đại Thập Quốc|Ngũ đại Thập quốc]] sau đó, chiến tranh Ngũ Hồ loạn Hoa mang nặng tính sắc tộc. Đây là lần đầu tiên các tộc Hồ phương Bắc tràn xuống
=== Những ông vua hiếu chiến ===
Một loạt quốc gia nay được dựng lên rồi mai đổ, thay hiệu, đổi ngôi chia cắt triền miên. Chẳng những chiến tranh tàn khốc mà nền cai trị của các vua Ngũ Hồ cũng tàn khốc, một phần do tính sắc tộc. Không giống với các vua người Hán, các vua Ngũ Hồ phần lớn xuất thân có trình độ văn hóa thấp, có tinh thần thượng võ, hiếu chiến và ưa dùng vũ lực. Các nhà sử học đã xác nhận thời kỳ này xuất hiện những bạo chúa như Thạch Hổ, Nhiễm Mẫn, Phù Sinh, Hách Liên Bột
=== Những quốc gia và ông vua vắn số ===
Hiển nhiên, trong cung đình các triều đại Ngũ Hồ ngắn ngủi cũng không ít biến loạn. Hơn 20 nước thay nhau chia cắt miền bắc. Cũng như số phận các vua nhà [[Nhà Tấn|Tây Tấn]], hầu hết các quốc gia Ngũ Hồ đều chỉ hưng thịnh được một đời với một vị vua anh minh là vua khai quốc. Các vua khai quốc chưa đủ thời gian và lực lượng thống nhất đã qua đời hoặc bị trừ khử. Cuộc thanh trừng diễn ra trong hầu hết nội bộ các triều đại Ngũ Hồ. Tính trung bình, mỗi vị vua chỉ ngồi ngai vàng được vài năm. Trong số 20 nước chỉ có các nước Tiền Lương, Tiền Yên, Bắc Yên, Hạ, Tây Tần, Hậu Tần là tương đối yên ổn nội bộ, không có lật đổ, thoán đoạt. Còn lại những quốc gia khác đều xảy ra chém giết, sát hại cung đình, trong khi đó bên ngoài biên giới, chiến sự còn đang rối ren, nguy cơ mất nước cận kề. Suốt hơn 100 năm, chỉ có vài vị vua Ngũ Hồ được giới sử học đánh giá cao, như Lưu Uyên nước Hán Triệu, Thạch Lặc nước Hậu Triệu, Lý Hùng nước Thành Hán, Phù Kiên nước Tiền Tần và Mộ Dung Thùy nước Hậu Yên. Chính nước Bắc Ngụy hùng mạnh, có công thống nhất miền bắc cũng không tránh khỏi những biến loạn cung đình, ngay trong thời kỳ xây dựng: vua sáng lập [[Thác Bạt Khuê]] và vua thống nhất Thác Bạt
=== Về nhà Tấn trong chiến tranh với Ngũ Hồ ===
Dòng 227:
* Thứ nhất là [[loạn bát vương]] châm lửa cho loạn Ngũ Hồ. Những người Hồ mở đầu cho cuộc đại loạn như Lưu Uyên, Lý Đặc sẽ không dám khởi loạn, hoặc sẽ bị dẹp nhanh chóng nếu kế tục Tấn Vũ Đế là một ông vua sáng suốt và loạn bát vương dừng lại ở trong cung đình, không trở thành chiến trường lan rộng ra ngoài kinh thành. Chính từ khi các vương tập hợp đại quân hỗn chiến để đánh Tư Mã Luân (301), Lý Đặc và Lưu Uyên mới lần lượt có cơ hội lộ diện (302, 304).
* Thứ hai, Đông Tấn chứa thêm mâu thuẫn của các sĩ tộc gốc Giang Nam và các sĩ tộc di cư từ
* Thứ ba là sự ươn hèn của những người cầm quyền Đông Tấn. Các vua Tấn không có ai đáng kể trong [[lịch sử Trung Quốc]], kể cả vua sáng lập Nguyên Đế Tư Mã Tuấn và [[Tấn Hiếu Vũ Đế]] Tư Mã Diệu - ông vua trong thời gian cai trị có trận Phì Thuỷ. Các vua Đông Tấn đại thể mờ nhạt như các vua Đông Hán sau [[Hán Quang Vũ Đế|Lưu Tú]], đại quyền nằm trong tay các thế tộc. Ngay trong các thế tộc chia nhau nắm quyền thì hai họ lớn là họ Vương, họ Tạ cũng không có tinh thần bắc tiến, chỉ muốn giữ Giang Nam yên ổn. Vì thế, trước những cơ hội thu phục miền bắc như khi
Đông Tấn được xem là kế tục Đông Ngô theo cách gọi ''[[Lục
* Có một nguyên nhân khác khiến nhà Tấn không thể bắc tiến thành công, đó là chính sách cai trị của các triều Ngũ Hồ. Họ biết tận dụng giai cấp địa chủ
== Danh sách các nước ==
Dòng 597:
|Quận Vô Cố Định Thủ
|[[Thổ Phồn|Thổ Phiên]]
|}
|