Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngũ Hồ thập lục quốc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 192:
Chiến tranh sinh tồn giữa Đông Tấn và Ngũ Hồ vẫn ác liệt. Năm 407, hậu duệ của một tộc người Hung Nô, con của [[Lưu Vệ Thần]] - thủ lĩnh người Hung Nô bị Thác Bạt Khuê đánh bại khi dựng nước Ngụy năm 386 - tên là Lưu Bột nổi dậy ở miền bắc, đổi họ là Hách Liên<ref>Tiếng Hung Nô nghĩa là "trời"</ref>. [[Hách Liên Bột Bột]] vốn là thuộc tướng của Hậu Tần. Diêu Hưng phân cấp cho ông 5 bộ Tiên Ti và hơn 2 vạn người Hồ trấn thủ phương bắc, vì đó ông được nắm quân tự lập ra nước [[Hạ (thập lục quốc)|Hạ]], định đô ở Thống Vạn (Hành Sơn, [[Thiểm Tây]]).
 
Năm 410, tướng Đông Tấn là [[Lưu Dụ]] diệt nước [[Nam Yên]] của cháu Mộ Dung Đức là [[Mộ Dung ChiêuSiêu]].
 
Năm 414, vua Tây Tần là [[Khất Phục Bàn]] diệt nước [[Nam Lương]] của [[Thốc Phát Nục Đàn]].
 
Năm 417, tướng Đông Tấn là [[Lưu Dụ]] lại bắc tiến, chiếm Trường An, diệt nước Hậu Tần của cháu Diệu Trường là [[Diêu Hoằng]]. Dụ để con là Nghĩa Chân ở lại giữ TràngTrường An rồi rút quân về. Nhân khi Lưu Dụ mải tranh giành quyền hành trong triều Tấn để chuẩn bị cướp ngôi, không chú ý tới miền bắc, vua Hạ là Hách Liên Bột Bột (Lưu Bột) mang quân đánh chiếm Trường An - kinh đô cũ của Hậu Tần. Lưu Nghĩa Chân bỏ TràngTrường An chạy về nam. Từ đó Hạ cũng thành một nước lớn, thế chỗ của Hậu Tần.
 
Năm 420, Lưu Dụ cướp ngôi [[nhà Tấn]], lập ra nhà Tống, sử gọi là [[Lưu Tống]].
 
Năm 421, vua [[Bắc Lương]] là Thư Cừ Mông Tốn (cướp ngôi Đoàn Nghiệp năm 401) mang quân diệt [[Tây Lương]] của cháu Lý Cảo là [[Lý TuầnTuân]].
 
Như vậy tới năm 421, trên bản đồ phía bắc chỉ còn các nước: Bắc Nguỵ, Bắc Yên, Hạ, Bắc Lương, Tây Tần.
Dòng 586:
|[[Thiên An|Lệnh Chi]]
|[[Tiền Yên]]
|-
|[[Thổ Dục Hồn]]
|[[Tiên Ti|Tiên Ty]]
|19
|[[Mộ Dung Thổ Dục Hồn]]
|[[Mộ Dung Nặc Hạt Bát]]
|[[313]] - [[687]]
|375
|phía nam Cam Túc, Thanh Hải, tây bắc Tứ Xuyên
|Quận Vô Cố Định Thủ
|[[Thổ Phồn|Thổ Phiên]]
|}