Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kênh Vĩnh Tế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Chú thích: Thêm thể loại using AWB
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 71:
 
==Tóm lược các giai đoạn đào kênh==
Công trình đào kênh Vĩnh Tế kéo dài từ thời tướng [[Nguyễn Văn Nhơn]] làm Tổng trấn [[Gia Định Thành]] ([[1819]]-[[1820]]) cho đến thời tướng [[Lê Văn Duyệt]] làm Tổng trấn Gia Định Thành ([[1820]]-[[1832]]) mới xong. Có thể xem hai ông như là “Tổng chi huy” của công trình. Ngoài ra, lần lượt còn có sự góp sức của hai Phó tổng trấn là [[Trương Tấn Bửu]] và [[Trần Văn Năng]].<ref>Theo Châu Hữu Hầu, ''Kỷ yếu'', tr. 56.</ref>.
 
*'''Giai đoạn 1''': Khởi công vào [[tháng mười hai|tháng 12]] ([[âm lịch]]) năm [[1819]] đến [[tháng ba|tháng 3]] ([[âm lịch]]) năm [[1820]] thì tạm dừng.
Dòng 94:
:''"Vĩnh Tế Hà: Ở về phía tây đồn [[Châu Đốc]]. Năm [[Kỷ Mão]] ([[1819]]) niên hiệu [[Gia Long]] thứ 18, đo thẳng từ hào sau phía phải đồn Châu Đốc lên phía tây, qua láng (bưng) bùn Ca Âm đến Kỳ Thọ (tục gọi là Cây Kè) dài 44.412 [[tầm]] thành ra 205 [[dặm Anh|dặm]] rưỡi (mỗi dặm bằng 1.700 thước nam), đặt tên là sông Vĩnh Tế...Ngày 15 [[tháng mười hai|tháng 12]] khởi công. Trừ đoạn láng bùn 4.075 tầm không đào đến, còn thật sự đào là 26.279 tầm, cân nhắc chỗ đào khó dễ, nhân lực nặng nhẹ, bắt đầu từ miệng hào đến láng bùn đất khô cứng có 7.575 tầm là phần việc của [[người Việt]], còn đất bùn nhão có 18.704 tầm là phần việc của dân Cao Miên (tức [[Chân Lạp]]). Đào bề ngang 15 tầm, sâu 6 thước ta, quan cấp mỗi tháng cho mỗi người là 6 quan tiền và 1 phương gạo. Đến ngày 15 [[tháng ba|tháng 3]] năm đầu thời [[Minh Mạng]] ([[1820]]) thì xong việc, cộng thành sông mới, bề dài 140 dặm, nối tiếp sông cũ đến cửa biển [[Hà Tiên]], tổng cộng dài 205 dặm rưỡi mà đường sông đi lại rất thông. Từ đó kế hoạch quốc gia về biên giới cũng như sự buôn bán của nhân dân cùng hưởng sự tiện lợi vô cùng"''<ref>''Gia Định thành thông chí'': [http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=4224&page=2]. Sách này ghi ngày xong việc là "15 [[tháng ba|tháng 3]] năm đầu thời [[Minh Mạng]]" ([[1820]]), là chưa chính xác. Bởi đó chỉ là xong giai đoạn đầu. Phải đào tiếp đến [[tháng năm|tháng 5]] ([[âm lịch]]) năm [[1824]] mới hoàn thành như ''Toát yếu'' (bản dịch, tr. 163) đã ghi.</ref>.
 
Chuyển đổi theo hệ đo lường ngày nay, thì kênh Vĩnh Tế có chiều dài là 87[[kilômét|km]], 340<ref>''Bách khoa toàn thư Việt Nam'', mục từ: “Kênh Vĩnh Tế” ghi chiều dài kênh tương đương 87 [[kilômét|km]].</ref>, rộng 30 [[m]], độ sâu trung bình khoảng 2,55m. Tuy nhiên, trừ đoạn láng Náo Khẩu Ca Âm (7.650m) và chiều dài sông Giang Thành (42.500m) có sẵn, thì phần phải đào mới chỉ là 37&nbsp;km, 190m <ref>Theo Châu Hữu Hầu (''Kỷ yếu'', tr.5). Theo Nguyễn Văn Hầu (tr. 191), bề sâu có 6 thước (thước cũ dài khoảng 0,425m; tức sâu 2,55m) là khá cạn. Hiện nay nhờ nhiều lần nạo vét, nên đã sâu hơn nhiều.</ref> .
 
Ước tính trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 90.000 dân binh <ref>Con số này tính theo Nguyễn Văn Hầu, do nhiều đợt gọp lại, không phải ngần ấy người có mặt một lúc tại công trường.</ref>. Tổng số ngày công là 3.463.500, và khối lượng đất đào là: 2. 8 45.035 [[mét khối|m³]] <ref>Theo Châu Hữu Hầu, ''Kỷ yếu'', tr. 65.</ref>.
 
Bởi công việc ở chốn “đồng không mông quạnh”, nhiều “sơn lam chướng khí”; việc ăn uống, thuốc men thảy đều thiếu thốn, khiến số người chết vì bệnh tật, kiệt sức, vì thú dữ như sấu, rắn rít... quá cao <ref>Sau, [[Thoại Ngọc Hầu]] cho gom nhặt hài cốt, cải táng nơi sơn lăng của mình tại chân [[Núi Sam]] và đặt tên là ''Nghĩa trủng''.</ref>. Và số người bỏ trốn rồi bỏ mạng cũng lắm, mặc dù luật lệ ràng buộc, nhiều tai ương, nhất là khi phải vượt qua [[vàm Nao (sông)|sông Vàm Nao]]. Cho nên khi tin vui về đến [[Huế]], vua [[Minh Mạng]] rất đổi mãn nguyện vì nối được chí cha, liền sắc khen thưởng, dựng bia ở [[núi Sam]] và ở bờ kênh mới đào để ghi nhớ thành quả to lớn này <ref>Vua cho phép Thoại Ngọc Hầu lấy tên vợ là [[Thoại Ngọc Hầu#Chánh thất|Châu Thị Tế]], dòng họ Châu vĩnh, đặt tên cho [[núi Sam]] là ''Vĩnh Tế Sơn'' và dòng kênh mới đào là ''Vĩnh Tế Hà''. Xem thêm phần '''bia Vĩnh Tế Sơn''' nơi trang [[núi Sam]].</ref>.
Dòng 104:
==Lợi ích==
[[Tập tin:Kênh Vĩnh Tế xưa.jpg|nhỏ|phải|250px| Kênh Vĩnh Tế năm 1929]]
Như đã nói ở phần trên, trước khi khởi đào, vua [[Gia Long]] đã có lời dụ cho dân chúng, vừa động viên vừa chỉ rõ sự lợi ích của việc đào kênh.
 
Năm [[1822]], vua [[Minh Mạng]] lại có chỉ dụ tương tự: