Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Wangari Maathai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 13:
 
Tiến sĩ '''Wangari Muta Maathai''' ([[1 tháng 4]], [[1940]] – [[25 tháng 9]], [[2011]]) là một người bảo vệ môi trường và là nhà hoạt động chính trị. Năm 1984, bà đoạt [[Giải thưởng Right Livelihood]]. Năm 1991, bà được trao [[Giải Môi trường Goldman]]. Năm 2004, bà trở thành người phụ nữ [[châu Phi]] đầu tiên nhận được [[Giải Nobel Hòa bình|Giải Nobel hòa bình]] vì những đóng góp của bà cho sự phát triển bền vững, dân chủ và hòa bình.” Là người phụ nữ đầu tiên ở Đông và Trung Phi có học vị tiến sĩ, Maathai còn đồng thời là người đứng đầu Hội Chữ thập Đỏ Keyna trong thập niên 1970 của thế kỷ 20. Tiến sĩ Maathai cũng là một thành viên của [[Quốc hội Kenya|Nghị viện]] và đã từng là trợ lý của Bộ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường trong chính phủ của tổng thống [[Mwai Kibaki]] từ giữa tháng giêng năm 2003 đến tháng 11 năm 2005.
Maathai trở thành một nhân vật quan trọng tại Kenya kể từ khi lập ra Phong trào Vành đai Xanh vào năm 1977, với mục đích hoạt động bảo vệ môi trường. Tổ chức của Maathai đã trồng được 40 triệu cây trên khắp lục địa đen.
 
Năm 2004, bà được trao [[Giải Nobel Hòa bình]] vì công việc trồng lại rừng ở Kenya. Maathai trở thành người phụ nữ châu Phi đầu tiên, người Kenya đầu tiên và nhà hoạt động vì môi trường đầu tiên nhận được vinh dự này.
Dòng 20:
==Thời trẻ và học tập==
 
Maathai sinh ra trong làng Ihithe, huyện Nyeri, trong [[tỉnh Central (Kenya)|cao nguyên trung bộ]] của Kenya thuộc Anh vào ngày 01 tháng 4 năm 1940<ref name="NobelBio">[http://nobelprize.org/nobel_prizes/peace/laureates/2004/maathai-bio.html Wangari Maathai, the Nobel Peace Prize 2004] NobelPrize.org. Retrieved 2009-02-24.</ref>. Gia đình cô thuộc nhóm dân tộc [[người Kikuyu|Kikuyu]], dân tộc đông dân nhất ở Kenya, và đã sống trong khu vực cho nhiều thế hệ<ref>Wangari Maathai, ''Unbowed: A Memoir'', [[Knopf]], 2006. ISBN 0-307-26348-7, pg 3.</ref>. Khoảng năm 1943, gia đình Maathai di chuyển đến một trang trại thuộc sở hữu người da trắng, trong Thung lũng Rift, gần thị trấn của Nakuru, nơi cha cô có việc làm. Cuối năm 1947,. cô trở lại Ihithe với mẹ, do hai anh em cô đang theo học tại trường tiểu học trong làng, và không có học có sẵn trên các trang trại, nơi cha cô làm việc. Cha cô vẫn ở lại trang trại<ref>''Unbowed'', pg 29.</ref> Shortly afterward, at the age of eight, she joined her brothers at Ihithe Primary School.<ref>''Unbowed'', pg 39–40.</ref>. Ngay sau đó, tám tuổi, cô tham gia anh em của mình tại trường tiểu học Ihithe.
 
Lúc cô lên mười một, Maathai chuyển đến trường trung học cơ sở Cecilia, một trường nội trú tại Sứ mệnh Mathari Công Giáo tại Nyeri<ref>''Unbowed'', pg 53.</ref>. Maathai học ở St. Cecilia bốn năm. Trong thời gian này, cô đã trở nên thông thạo tiếng Anh và chuyển đổi sang Công giáo, tên thánh Mary Josephine. Cô cũng đã tham gia với xã hội Kitô giáo được gọi là Lê dương của Mẹ Maria, mà các thành viên đã cố gắng "để phục vụ Thiên Chúa bằng cách phục vụ những con người đồng con người""<ref>''Unbowed'', pg 60–61.</ref>. Học tập tại St. Cecilia, Maathai đã được che chở từ cuộc nổi dậy đang diễn ra Mau Mau, buộc mẹ cô để di chuyển từ nhà cửa vườn tược của họ đến một ngôi làng khẩn cấp trong Ihithe<ref>''Unbowed'', pg 63–69.</ref>. Khi cô ấy hoàn thành việc học của mình vào năm 1956, cô được đánh giá đầu tiên trong lớp học của mình, và đã được cấp nhập học vào trường duy nhất Công giáo cho trẻ em gái ở Kenya, Trường trung học Loreto Limuru ở [[Limuru]]<ref>''Unbowed'', pg 69.</ref>.
Dòng 26:
===Học ở Mỹ và Đức===
Maathai đã nhận học bổng học tập ở Cao đẳng Mount St. Scholastica (nay là [[Cao đẳng Benedictine]]), ở [[Atchison, Kansas|Atchison]], Kansas. At Mount St. Scholastica, cô theo chuyên ngành [[sinh học]] với [[Academic minor|minors]] về [[hóa học]] và [[tiếng Đức]].<ref>''Unbowed'', pg 79.</ref> Sau khi nhận bằng [[cử nhân khoa học]] năm 1964, cô được nhận vào [[Đại học Pittsburgh]] để học [[thạc sĩ]] sinh học. Chi phí nghiên cứu của cô tại Đại học Pittsburgh được cung cấp bởi [[Viện Phi-Mỹ]].<ref>''Unbowed'', pg 92.</ref> Trong quá trình học tại [[Pittsburgh]], Maathai đã lần đầu trải nghiệm [[phục hồi môi trường]], khi các nhà môi trường đã vận động loại bỏ [[ô nhiễm không khí]].<ref>''Unbowed'', pg 93–94.</ref> Thánh 1 năm 1966, Maathai hoàn tất khóa học tại Đại học Pittsburgh với tấm bằng thạc sĩ khoa học ngành khoa học sinh học,<ref name="UNCCD">[http://www.unccd.int/IYDD/documents/iydd_docs/WANGARIMAATHAICV.pdf UNCCD – Wangari Maathai]. Retrieved 2009-04-10</ref> và được bổ nhiệm chức trợ lý nghiên cứu cho một giáo sư của ngành [[zoology]] tại [[Đại học Nairobi|University College of Nairobi]].<ref>''Unbowed'', pg 94–95.</ref>
Khi trở về Kenya, Maathai bỏ tên Kitô giáo, thích được biết đến bởi tên khai sinh, Wangari Muta<ref>''Unbowed'', pg 96.</ref>. Khi cô đến trường Đại học Nairobi cho công việc mới của mình như là một trợ lý nghiên cứu các giáo sư động vật học, cô đã được thông báo rằng công việc của cô đã được trao cho một người khác. Maathai tin rằng điều này xuất phát từ việc phân biệt giới tính và thiên vị bộ lạc<ref>''Unbowed'', pg 101.</ref>. Sau khi một công việc tìm kiếm kéo dài hai tháng, Giáo sư Reinhold Hofmann, từ Đại học Giessen ở Đức, cung cấp cho cô một công việc như một trợ lý nghiên cứu trong bộ phận [[vi giải phẫu]] mới được thành lập. Khoa Giải phẫu thú y tại Trường Thú y tại trường Đại học College of Nairobi<ref>''Unbowed'', pg 102.</ref>.
 
Trong tháng tư năm 1966, cô gặp Mwangi Mathai, một người Kenya, người đã nghiên cứu ở Mỹ, người sau này sẽ trở thành chồng của cô <ref>''Unbowed'', pg 105-105.</ref> Cô cũng thuê một cửa hàng nhỏ trong thành phố, và thành lập một cửa hàng tạp hóa, mà ở đó chị em của mình làm việc. Năm 1967, sự thúc giục của giáo sư Hofmann, cô chuyến đến [[Đại học Giessen]] tại Đức để nghiên cứu sinh tiến sĩ. Cô học cả ở Giessen và [[Đại học Ludwig Maximilian München]].