Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nam tiến”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n →‎Nhà Lý-Trần-Hồ: clean up, replaced: . → . using AWB
Dòng 14:
Năm [[1069]], vua [[Lý Thánh Tông]] thân chinh mang 10 vạn quân vào đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Thành bấy giờ là [[Chế Củ]] (''Jaya Rudravarman''). Chế Củ buộc phải dâng đất của ba châu [[Bố Chính]], [[Địa Lý (châu)|Địa Lý]] và [[Ma Linh]] cầu hòa. Vua Lý Thánh Tông đặt tên cho vùng đất mới này là [[trại Tân Bình]], lãnh thổ Đại Việt thêm vùng đất này, nay là [[Quảng Bình]] và bắc [[Quảng Trị]].
 
Năm [[1306]], thuộc vào một giai đoạn Chiêm Thành và Đại Việt có mối giao hảo tốt đẹp, nhà Trần gả [[huyền Trân|công chúa Huyền Trân]] cho vua Chiêm Thành bấy giờ là [[Chế Mân]] (''Jaya Simhavarman'') . Đổi lại Chế Mân dâng đất cho Đại Việt gồm [[Châu Ô]] và [[Châu Lý|Châu Rí]]. Các vùng đất này được vua [[Trần Anh Tông]] đổi tên là [[Thuận Châu]] và [[Châu Lý|Hóa Châu]], nay thuộc vùng nam [[Quảng Trị]] và [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên-Huế]], lãnh thổ Đại Việt phía nam tới Hải Vân Quan ([[đèo Hải Vân]] ngày nay)
 
Những năm đầu thời kỳ [[nhà Hồ]], từ [[1400]] đến [[1403]], nhà Hồ liên tục đem quân tấn công Chiêm Thành và đã mở mang được lãnh thổ từ Đà Nẵng tới [[Quảng Ngãi]] ngày nay. Tuy nhiên phần lãnh thổ này bị Chiêm Thành lấy lại sau khi nhà Hồ sụp đổ (1407)