Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khoa học máy tính”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Lịch sử: sửa khoảng trắng trước dấu chấm, phẩy, replaced: . → . using AWB
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
Dòng 8:
Lịch sử của khoa học máy tính đã bắt đầu từ nhiều năm trước phát minh ra [[máy tính]] hiện đại. Các máy móc dành cho việc tính toán các bài toán số học cố định đã tồn tại từ thời cổ đại, chẳng hạn như [[bàn tính]]. [[Wilhelm Schickard]] đã thiết kế chiếc máy tính cơ học đầu tiên năm 1623, nhưng không hoàn thành được việc xây dựng nó.<ref>{{chú thích web|author=Nigel Tout|title=Calculator Timeline|url=http://www.vintagecalculators.com/html/calculator_time-line.html|work=Vintage Calculator Web Museum|date=2006|accessdate=2006-09-18}}</ref> [[Blaise Pascal]] thiết kế và xây dựng máy tính cơ học hoạt động được đầu tiên, mang tên [[máy tính của Pascal|Pascaline]], năm 1642. [[Charles Babbage]] đã thiết kế một máy tính theo hiệu (''difference engine'') vào [[thời Victoria]]<ref>{{chú thích web | url=http://www.sciencemuseum.org.uk/on-line/babbage/index.asp | title=Science Museum - Introduction to Babbage | accessdate=2006-09-24}}</ref>, và [[Ada Lovelace]] đã viết bản hướng dẫn sử dụng máy. Nhờ công trình này, ngày nay, bà được coi là [[lập trình viên]] đầu tiên trên thế giới. Vào khoảng năm 1900, tập đoàn [[IBM]] đã bán những chiếc máy tính dùng thẻ đục lỗ.<ref>{{chú thích web | url=http://www.pattonhq.com/ibm.html | title=IBM Punch Cards in the U.S. Army | accessdate=2006-09-24}}</ref>. Tuy nhiên, tất cả những chiếc máy này đều chỉ thực hiện một nhiệm vụ đơn, hoặc cùng lắm là một tập nhỏ các nhiệm vụ.
 
Trước năm 1920, công việc tính toán được thực hiện chủ yếu bởi những nhân viên chuyên nghiệp. Những nhà nghiên cứu đầu tiên về ngành mà sau này được gọi là khoa học máy tính, chẳng hạn [[Kurt Gödel]], [[Alonzo Church]] và [[Alan Turing]], đã quan tâm đến câu hỏi về khả năng tính toán: những gì có thể được tính toán bởi một người thủ quỹ - người chỉ đơn giản dùng giấy và bút chì để làm một danh sách các bước tính toán, cho đến khi nào xong việc mà không cần đến trí thông minh hay hiểu biết? Một phần của động cơ này là ước muốn phát triển các ''máy tính'' có khả năng tự động hóa các công việc tính toán thường là buồn tẻ và dễ sai của một ''người tính toán''. Vấn đề then chốt là xây dựng các hệ thống tính toán phổ dụng có khả năng (về lý thuyết) thực hiện mọi nhiệm vụ tính toán có thể cần đến, và nhờ đó tổng quát hóa tất cả các máy tính chuyên biệt trước kia thành một khái niệm đơn nhất về chiếc máy tính phổ dụng.
 
Trong những năm 1940, khi các máy tính mới hơn và mạnh hơn được phát triển, người ta thấy rõ ràng hơn rằng máy tính có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác ngoài các tính toán toán học, lĩnh vực khoa học máy tính được mở rộng thành ngành nghiên cứu [[tính toán]] nói chung. Từ thập kỷ 1960, khoa học máy tính bắt đầu được thiết lập như là một ngành học riêng biệt, với sự ra đời của các khoa Khoa học máy tính đầu tiên và các chương trình đào tạo đại học chuyên ngành Khoa học máy tính.<ref name="Denning_cs_discipline">{{chú thích tạp chí | last=Denning | first=P.J. | authorlink=Peter J. Denning | year=2000 | title=[http://www.idi.ntnu.no/emner/dif8916/denning.pdf Computer science:the discipline] | journal=Encyclopedia of Computer Science}}</ref> Từ khi các máy tính được sử dụng trong thực tiễn, nhiều ứng dụng của tính toán đã trở thành các lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt.