Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tả Thanh Oai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm thể loại VIP, replaced: : → : (2) using AWB
Dòng 24:
Đóng góp lớn nhất của các nhà khoa bảng làng Tó là về văn học, giáo dục. Hai cha con Ngô Thì Sĩ - Ngô Thì Nhậm là những danh nhân kiệt xuất, học vấn sâu rộng, làm rạng rỡ cho tông phái nhà Nho, vừa là quan văn, vừa là tướng, vừa là nhà sử học, nhà thơ, để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Họ Ngô còn nổi tiếng với dòng [[Ngô gia văn phái]], với thiên tiểu thuyết [[Hoàng Lê nhất thống chí]] có giá trị lớn về tư liệu lịch sử<ref name="TTO1"/>.
 
Để có sự thành đạt về khoa bảng, làng Tả Thanh Oai chế độ khuyến học thoả đáng. Làng dành 40 mẫu ruộng để làm học điền. Những người đỗ đạt được trọng vọng. Trong tâm thức của người làng, thế đất của làng phát đạt về mặt học hành nên có ý thức với việc học. Cuốn Lư sử điển yếu điều lệ (soạn năm 1791), viết :“Làng Tả Thanh Oai đất do [[sông Tô Lịch|sông Tô]] dẫn mạch, miếu do [[sông Nhuệ]] bồi cơ, danh đăng khoa giáp, thế phiết thi thư, quý mà không phú, phần nhiều là sĩ dân sính về đường học, coi là việc hàng đầu..."<ref name="TTO1"/>.
 
Làng Tả Thanh Oai trước đây có 2 đình là đình Tổ Thị và đình Hoa Xá (nay chỉ còn đình Hoa Xá), thờ [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]] và Bà Chúa Hến – cô gái làng Tó được Lê Hoàn lấy làm phi trong dịp dẫn đại quân theo đường sông ra Bắc để tiêu diệt quân xâm lược Tống, ghé thăm làng (năm 981). Hội làng tổ chức trong 3 ngày: 13, 14, 15 tháng Giêng, có rước cỗ thờ và rước Giầu vàng từ đình Hoa Xá đến Minh Ngự Lâu (nhà Bà Chúa Hến) để kỉ niệm cuộc gặp gỡ tình duyên giữa Bà và Vua Lê Đại Hành. Ngoài ra còn các nghi lễ hát xướng ca ngợi công đức thành hoàng, cảnh đẹp, có đọc “Mục lục” đề cao truyền thống văn vật của làng, cầu chúc dân làng an khang thịnh vượng. Làng còn giữ được 4 chùa và đặc biệt là 4 nhà thờ của các dòng họ khoa bảng, nhà thờ các danh nhân Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm- các di tích phản ánh truyền thống hiếu học và khoa bảng của làng<ref name="TTO1"/>.
Dòng 50:
Theo cuốn “Lư sử điển yếu điều lệ” - sách chữ Hán do nhóm Ngô gia văn phái soạn vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794), Tiến sĩ triều Lê Nguyễn Đăng Sớ viết lời tựa, hiện còn lưu ở đình làng Tả Thanh Oai thì trang Lữ Xuyên - làng Nhân Hòa do các tù binh Chiêm Thành bị bức ra đây từ thời Lý để khai thác vùng đất trũng - nơi hợp lưu của sông Tô Lịch và sông Nhuệ. Qua bao thế kỷ, di duệ của những người Chăm đã hòa huyết, hòa đồng với người Việt sở tại để tạo lập nên làng xóm trù phú. Dấu ấn Chăm Pa còn lại rất mờ nhạt. Cơ cấu tổ chức, các sinh hoạt văn hóa của dân làng mang đậm phong cách người Việt<ref name="TTO3"/>.
 
Nhân Hòa là một làng nhỏ, năm 1926 chỉ 462 nhân khẩu. Dân đinh trong làng được chia làm hai giáp : giáp Hậu và giáp Hữu. Dân làng sống chủ yếu bằng trồng lúa và khai thác các nguồn thủy sản trong đồng trũng<ref name="TTO3"/>.
 
Đình làng Nhân Hòa dựng vào thời Lê - Trịnh, thờ hai vị thành hoàng là: Phương Dung Hoàng Thái hậu thời Lý Triệu Thị Lã và Đông Hải đại vương Đoàn Thượng - một thế lực quân sự mạnh vào cuối thời Lý. Có ý kiến cho rằng, bà Phương Dung Hoàng Thái hậu Triệu Thị Lã là Nhũ mẫu của Vua Lý Huệ Tông (cuối thế kỷ XII) và có công giúp đỡ cả Đoàn Thượng. Tại đình làng hiện còn đôi câu đối nói về việc này. Hai vị thành hoàng được các triều vua phong 38 đạo sắc hiện còn lưu trong đình. Đạo sớm nhất vào năm Đức Long thứ tư (1632)<ref name="TTO3"/>.