Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kinh Mân Côi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm thể loại VIP, replaced: Đức Mẹ → Maria (10) using AWB
Dòng 1:
[[Tập tin:Rosary2011.jpg|nhỏ|phải|250px|Tràng hạt Mân Côi]]
'''Kinh Mân Côi''' là một truyền thống phổ biến và quan trọng của [[Giáo hội Công giáo Rôma]]. Bài kinh này bao gồm một bộ [[chuỗi tràng hạt (Phật giáo)|tràng hạt]] và các câu kinh cầu theo mẫu. Khi thực hành, [[giáo dân|người Công giáo]] đọc lên thành tiếng, đọc thầm hay đọc bằng ý nghĩ theo trình tự: một [[Kinh Lạy Cha]] (''Pater noster''), sau đó là mười [[Kinh Kính Mừng]] (''Ave Maria'') và kết thúc bằng một [[Kinh Sáng Danh]] (''Gloria Patri''), mỗi trình tự như thế gọi là một "mầu nhiệm" (suy niệm), được hiểu là một ''bộ mười kinh''. Một "mầu nhiệm" còn được gọi là một "sự" (một "decade"), tương ứng với một sự kiện về cuộc đời [[Giê-su|Chúa Giêsu]] và [[Maria|Đức MẹMaria Maria]] theo [[Tân Ước]]. Cho tới trước thế kỷ 21, Kinh Mân Côi bao gồm 15 mầu nhiệm, được chia làm ba nhóm: Mầu nhiệm năm Sự vui (''Mysteria Gaudiosa''), Mầu nhiệm năm Sự thương (''Mysteria Dolorosa''), Mầu nhiệm năm Sự mừng (''Mysteria Gloriosa''). Tất cả hầu như không có gì thay đổi cho đến năm [[2002]], [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Gioan Phaolô II|Gioan Phaolô II]] công bố thêm năm mầu nhiệm mới, đó là Mầu nhiệm năm Sự sáng (''Mysteria Luminosa''), như vậy, Kinh Mân Côi ngày nay có 20 mầu nhiệm.
 
== Tên gọi ==
Xuất phát từ [[latinh|tiếng Latinh]]: ''rosarium'', nghĩa là ''khu vườn hoa hồng''. Trong [[tiếng Việt]], Kinh Mân Côi còn được gọi bằng các tên như: Văn Côi, Môi Côi, Môi Khôi, Mai Khôi...
== Vai trò ==
Kinh Mân Côi gắn liền với những cách thức tôn kính Đức MẹMaria Maria được nhiều Giáo hoàng khuyến khích thực hành, đặc biệt là Giáo hoàng Lêô XIII. Ông được mệnh danh là "Giáo hoàng của Kinh Mân Côi" khi đã ban phép lành và làm cho phổ biến bài kinh này với tên gọi ''Nữ vương Rất thánh Mân Côi''. Giáo hoàng Piô V đưa bài kinh này hệ thống [[năm phụng vụ]] Công giáo với danh xưng ''Lễ Đức MẹMaria Mân Côi'', tổ chức vào ngày [[7 tháng 10]] hằng năm. Tuy nhiên, các giáo phái [[Tin Lành|Kháng Cách]] như [[Báp-tít]], [[Giáo hội Trưởng Nhiệm|Trưởng Lão]] thì không thích và cực lực can ngăn tín đồ của họ dùng bài kinh này.
 
== Lịch sử ==
[[Tập tin:MaryRose-rosary-81A1414h.jpg|nhỏ|250p<|Tràng hạt Mân côi bằng gỗ thế kỷ 16]]
[[Tập tin:Rosary-Madonna-Atzwang.jpg|nhỏ|160px|Tượng Đức MẹMaria Mân Côi bởi Franz Tavella, 1905 tại [[Tirol]]]]
Có những chi tiết khác nhau về lịch sử của Kinh Mân Côi. Theo truyền thống, giáo hội tin rằng Kinh Mân Côi được Đức MẹMaria Maria trao cho [[Thánh Đa Minh]] vào năm [[1214]] tại nhà thờ Prouille, gần [[Toulouse]] miền nam nước [[Pháp]]. Thực tế, việc cầu nguyện với một tràng hạt đã có nguồn gốc rất xa xưa. Vào những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, các tu sĩ trong vùng [[hoang mạc|sa mạc]] [[Ai Cập]] có thói quen dùng những hạt cây hay những hòn sỏi nhỏ để đếm kinh - kinh này là Kinh Lạy Cha. Tùy mức độ sùng đạo, mỗi buổi sáng, họ quyết định số kinh sẽ đọc trong ngày tương ứng với số lượng hạt này rồi cho vào túi, đọc xong một kinh thì họ vứt đi mỗi hạt. Đến thời [[Trung Cổ]], các tu sĩ có thói quen đọc 150 bài [[Thánh Vịnh]] mỗi ngày trong giờ Kinh Phụng vụ. Nhưng có nhiều người không biết đọc và viết tiếng Latinh nên họ không hiểu và đọc 150 kinh Lạy Cha để thay thế. Để đếm các kinh ấy, người ta dùng những hạt gỗ xâu vào nhau nhờ một sợi dây và gọi đây là tràng hạt kinh Lạy Cha. Sau này, người ta dùng thêm Kinh Kính Mừng bên cạnh Kinh Lạy Cha. [[Thế kỷ 7|Thế kỷ thứ 7]], là thế kỷ khởi sắc của việc sùng kính Đức MẹMaria, giáo dân bắt đầu phổ biến việc đọc 150 Kinh Kính Mừng thay cho 150 kinh Lạy Cha và gọi các này là "sách Thánh Vịnh của Đức MẹMaria".
 
[[Thế kỷ 13]], thánh Đa Minh được sứ mệnh chống lại sự bành trướng của lạc giáo Albigens. Theo tục truyền, năm 1213, Đức MẹMaria hiện ra với ông và dạy phải dùng hai phương tiện để chiến thắng là giảng dạy và cầu nguyện bằng kinh Mân Côi. Từ năm [[1410]] đến [[1439]], một thầy tu tên là Dominique ở [[Köln]], nước [[Đức]] đề nghị đọc theo một hình thức mới, chỉ có 50 kinh Kính Mừng, trước mỗi kinh có phần suy niệm một đoạn [[Sách Phúc Âm|Phúc Âm]]. Ý tưởng này phổ biến và phát triển mạnh mẽ. Từ [[thế kỷ 16]] đến tận đầu [[thế kỷ 20]], cấu trúc của Kinh Mân Côi cơ bản vẫn không thay đổi, gồm 15 "mầu nhiệm" chia làm ba nhóm. Trong thế kỷ 20, người ta còn phổ biến kinh cầu Fatima vào đoạn sau của mỗi "mầu nhiệm". Đến năm 2002, Giáo hoàng Gioan Phaolô II mới thêm vào Mầu nhiệm năm Sự sáng - đây là sự thay đổi lớn của kinh này sau năm thế kỷ.
 
== Cấu trúc ==
Dòng 39:
==== Năm sự Sáng ====
#Thứ nhất thì ngắm: [[Chúa Giêsu chịu phép rửa|Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan]]. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con Thiên Chúa.
#Thứ hai thì ngắm: [[Tiệc cưới Cana|Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana]]. Ta hãy xin cho được noi gương Đức MẹMaria mà vững tin vào Chúa.
#Thứ ba thì ngắm: [[Thiên đàng|Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối]]. Ta hãy xin cho được tin vào lòng Chúa thương xót và siêng năng lãnh nhận bí tích giao hòa.
#Thứ tư thì ngắm: [[Chúa Giêsu Hiển dung|Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi]]. Ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần.
Dòng 55:
# Thứ hai thì ngắm: [[Lễ Thăng Thiên|Ðức Chúa Giêsu lên trời]]. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.
# Thứ ba thì ngắm: [[Lễ Ngũ Tuần|Ðức Chúa Thánh Thần hiện xuống]]. Ta hãy xin cho được lòng đầy dẫy mọi ơn Ðức Chúa Thánh Thần.
# Thứ bốn thì ngắm: [[Lễ Đức MẹMaria Lên Trời|Ðức Chúa Trời cho Ðức Mẹ lên trời]]. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Ðức Mẹ.
# Thứ năm thì ngắm: [[Ðức Chúa Trời thưởng Ðức Mẹ trên trời]]. Ta hãy xin Ðức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Ðức Mẹ trên nước Thiên đàng.