Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Loại hình ngôn ngữ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 29:
*Ngữ âm học: thanh điệu, phụ âm, nguyên âm.
 
==KếtCác quảloại phânhình loạingôn ngữ==
Sự phân loại hiện nay thường được nhiều người chấp nhận nhất là sự phân loại các ngôn ngữ trên thế giới thành 4 loại: đơn lập, hòa kết, chắp dính, lập khuôn.
 
Căn cứ vào những thuộc tính loại hình mà các ngôn ngữ trên thế giới được chia chủ yếu thành hai nhóm lớn sau
<br>
===Ngôn ngữ đơn lập===
<br>
Tiếng Việt, Mường, Hán, Thái
Tiếng Hán, tiếng Thái và các tiếng Môn-Khmer (tiếng Việt cũng thuộc nhóm tiếng này) là những ví dụ tiêu biểu cho loại hình ngôn ngữ đơn lập. Các đặc điểm chính của loại hình này là:
<br>
*Từ không biến đổi hình thái. Hình thái của từ không chỉ ra quan hệ giữa các từ trong câu.
*Hư từ và vị trí, trật tự từ đóng vai trò làm rõ [[quan hệ ngữ pháp]] cũng như [[ý nghĩa ngữ pháp]] của từ và của câu.
VD:
Thêm hư từ ''"sẽ"'' hay ''"đang"'' trước từ ''"ăn"'' sẽ làm thay đổi ý nghĩa thời gian của hành động. (''đang'' ăn/ ''sẽ'' ăn)
Hoặc đảo vi trí các từ cũng làm thay đổi ý nghĩa ngữ pháp: ''"chân bàn"'' và ''"bàn chân"''
*Tính phân tiết. Hạt nhân cơ bản của từ vựng là các từ đơn tiết. Vì thế mà ranh giới giữa âm tiết, hình vị và từ không rõ ràng (ví dụ: trong tiếng Việt, ''"nhà"'' vừa là một hình vị, mà cũng vừa là một từ). Cũng vì vậy mà từ ghép và cụm từ cũng khó phân biệt.
*Khái niệm "các từ loại" là rất mơ hồ. VD như ''"cưa"'' vừa là dụng cụ để xẻ gỗ, vừa chỉ hành động cắt xẻ gỗ. Nguyên nhân do cấu trúc của những từ có ý nghĩa đối tượng, tính chất, hành động... không tách biệt nhau.
 
*Từ không có sự phân chia, phân biệt thành căn tố và phụ tố mà chỉ do căn tố tạo thành.
*Từ không biến đổi hình thái.
*Ý nghĩa ngữ pháp và quan hệ ngữ pháp được thể hiện bằng hư từ và trật tự từ.
*Phạm trù từ loại không được thể hiện rõ ràng bằng các dấu hiệu hình thức. Người ta nhận diện từ loại dựa vào khả năng kết hợp và cương vị cú pháp.
*Trật tự S - O - V là trật tự cố định.
*Ranh giới giữa cụm từ và từ ghép là khó phân biệt.
 
===Ngôn ngữ hòakhông kếtđơn lập===
Đuợc chia thành ba loại hình nhỏ sau đây:
 
====Ngôn ngữ hòa kết (chuyển dạng)====
Tiếng Anh, tiếng Nga, tiềng Pháp...
 
*Từ biến đổi hình thái để diễn tả quan hệ ngữ pháp. Đặc biệt có sự biến đổi nguyên âm và phụ âm trong hình vị. Do sự biến đổi này mang ý nghĩa ngữ pháp nên được gọi là ''"biến tố bên trong"''.
*Từ có sự phân biệt giữa căn tố và phụ tố nhưng ranh giới giữa căn tố và phụ tố không rõ ràng.
*Các hình vị trong từ ở ngôn ngữ hoà kết liên kết với nhau rất chặt chẽ. Chính tố không thể đứng một mình. Ví dụ trong tiếng Nga, chính tố ''"рук"'' không thể đứng một mình mà phải đi kèm phụ tố ''-е'' hoặc ''-ам'' (''"руке"'',''"рукам"'').
*Từ biến đổi hình thái để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp.
*Mỗi phụ tố có thể đồng thời mang nhiều ý nghĩa , và ngược lại, một ý nghĩa có thể được biểu thị bằng nhiều phụ tố. Ví dụ để diễn tả ý nghĩa, tính chất đối lập, trong tiếng Đức có các phụ tố như ''"a-"'', ''"un-"'' hay ''"im-"''. "typisch" (điển hình) và "''a''typisch", "schön" (đẹp)và "''un''schön".v..v...
*Số lượng hư từ ít.
*Một điểm đặc biệt của ngôn ngữ hoà kết là: ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp được dung hợp trong từ nhưng không thể tách bạch được. Có thể thấy như trong tiếng Anh, rất khó để phân biệt ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp trong từ ''"feet"'' (số nhiều của ''"foot"''-bàn chân). Chính bởi đặc điểm này mà người ta gọi là ''các ngôn ngữ hoà kết''.
*Quan hệ giữa phụ tố và ý nghĩa mà chúng biểu đạt không tương ứng 1:1
**1 phụ tố có thể có nhiều ý nghĩa ngữ pháp.
**1 ý nghĩa ngữ pháp có thể được diễn đạt bằng nhiều phụ tố.
*Phụ tố có thể đảm đương nhiều chức năng, có phụ tố đồng âm và đồng nghĩa.
 
 
====Ngôn ngữ chắp dính====
Tiếng Nhật, tiếng Hàn. tiếng Thổ...
 
*Điểm khác biệt lớn nhất của ngôn ngữ chắp dính và ngôn ngữ hoà kết nằm ở độ chặt chẽ trong mối liên hệ giữa các hình vị. Hình vị trong ngôn ngữ chắp dính có tính độc lập cao hơn và liên kết với nhau cũng không chắc chắn. Điển hình là việc chính tố có thể đứng một mình. Để hiểu rõ, ta cùng xem thí dụ với tiếng Thổ Nhĩ Kì:
*Từ có căn tố và phụ tố và ranh giới giữa chúng rõ ràng.
 
*Số lượng các phụ tố rất nhiều, gần như không có phụ tố đồng âm, đồng nghĩa.
''adam'' (người đàn ông)- ''adamlar'' (những người đàn ông)
*Căn tố có thể hoạt động độc lập mà không cần sự có mặt của phụ tố.
''kadin'' (người phụ nữ)- ''kadinlar'' (những người phụ nữ)
 
* Các phụ tố được sử dụng rộng rãi để cấu tạo từ và biểu thị những mối quan hệ khác nhau. Thế nhưng mỗi phụ tố lại chỉ biểu thị một ý nghĩa ngữ pháp, và ngược lại cũng vậy. Do vậy từ có độ dài rất lớn.
 
 
===Loại=Ngôn hìnhngữ lậphỗn khuônnhập (đa tổng hợp)====
Các ngôn ngữ Chu-cốt, Cam-chat.
 
*Đặc điểm nổi bật nhất của loại hình ngôn ngữ này là hiện tượng một từ có thể tương ứng với một câu trong ngôn ngữ khác. Như ta đã biết, để cấu tạo nên câu cần phải có ít nhất thành phần chủ ngữ và vị ngữ, ngoài ra còn có định ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ... Nhưng ở đây, tất cả được thể hiện chính tố, các phụ tố trong từ. VD: ''"i-n-i-a-l-u-d-am"'' trong tiếng [[Tschinuk]] ở Bắc Mỹ có nghĩa như câu ''" tôi đã đến để cho cô cái này"'' trong tiếng Việt. Có thể thấy trong thí dụ trên các thành phần câu tương ứng với các bộ phận, thành phần được chứa đựng trong một từ. Vì thế người ta gọi các ngôn ngữ trên là ''hỗn nhập'' hay ''đa tổng hợp''.
*Có một loại đơn vị đặc biệt. Vè mặt hình thức là từ, về mặt chức năng là câu.
*Tuy nhiên, bên cạnh các hình thức hỗn nhập vẫn có các hình thức độc lập. Nghĩa là vẫn xuất hiện các từ tách rời, từ đơn.
*Vừa có hiện tượng chắp nối liên tiếp như các ngôn ngữ chắp dính, vừa có hiện tượng biến đổi phụ tố như các ngôn ngữ biến hình.
*Các hình vị trong ngôn ngữ hỗn nhập vừa liên kết theo nguyên tắc kết dính như ngôn ngữ hoà kết hay chắp dính, vừa có thể chuyển dạng nội bộ. Nói cách khác, xét về mặt cấu trúc của các hình vị và mối liên kết giữa chúng thì các ngôn ngữ hỗn nhập mang những đặc điểm của cả hai loại hình ngôn ngữ trên.
 
==Tham khảo==