Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phật giáo”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n robot Thêm: zu:Inkolo kaBudha |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
{{Portal}}
'''Phật giáo''' (zh. 佛教, sa. ''buddhaśāsana'', pi. ''buddhasāsana'', bo. ''sangs rgyas bstan pa'' སངས་རྒྱས་བསྟན་པ་), hay '''giáo lý của Phật-đà''' (''śāsana''), là một trong ba [[tôn giáo]] lớn trên thế giới (hai tôn giáo lớn khác là [[
==Giáo lí cơ bản==
Dòng 34:
==Lịch trình tu học==
Theo giáo lí nguyên
Cách thực hành trong Phật giáo cũng được phân chia theo [[Tam học]] (sa. ''tisraḥ śikṣāḥ''), cụ thể là tu học về giới (tăng thượng giới học, sa. ''adhiśīlaśikṣā''), định (tăng thượng định học, sa. ''adhicittaśikṣā'') và huệ (tăng thượng huệ học, sa. ''adhiprajñāśikṣā''). Trước hết hành giả phát lòng tin ([[tín]], sa. ''śraddhā'') vào Tam bảo, giữ giới luật đúng theo địa vị của mình (cư sĩ, sa-di hoặc tỉ-khâu). Qua đó mà ông ta chuẩn bị cho cấp tu học kế đến là [[Thiền định]]. Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền ([[Tứ thiền định|tứ thiền]], sa. ''caturdhyāna''). Một số cách thực hành được nhắc đến nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên, đó là [[Tứ niệm xứ]] (sa. ''catvāri smṛtyupasthānāni''), [[Tứ vô lượng|Tứ vô lượng tâm]], tức là trau dồi bốn tâm thức Từ, Bi, Hỉ và Xả (sa. ''catvāry apramāṇāni'', cũng được gọi là Tứ Phạm trú, sa. ''brahmavihāra''). Cách thiền định ở cấp này được phân làm hai loại: 1. Chỉ (sa. ''śamatha'') là phương pháp lắng đọng tâm, và 2. Quán (sa. ''vipaśyanā'', ''vidarśanā'') là cách Thiền quán lập cơ sở trên Chỉ, tức là có đạt định an chỉ xong mới có thể thành tựu công phu Quán. Phần thứ ba của Tam học là huệ học, lập cơ sở trên Thiền quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền định ở đây có thể là [[Tứ diệu đế]], nguyên lí [[Duyên khởi]] (sa. ''pratītyasamutpāda'') hoặc [[Ngũ uẩn]]. Ai hoàn tất Tam học này sẽ đạt được sự hiểu biết về giải thoát (sa. ''vimuktijñāna''), biết là mình đã đạt giải thoát. Phiền não của hành giả này đã được tận diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt (vô lậu, sa. ''anāsrava'') và hành giả ấy đạt [[Thánh quả|Tứ thánh quả]] [[A-la-hán]].
Dòng 42:
==Phát triển và phổ biến==
Sự phát triển của đạo Phật có thể được chia làm bốn giai đoạn:
#Giữa [[thế kỉ thứ 6 TCN|thế kỉ thứ 6]] đến giữa [[thế kỉ thứ 5 TCN|thế kỉ thứ 5 trước CN]]: Giai đoạn nguyên
#Kể từ [[thế kỉ thứ 4 TCN|thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên]]: Giai đoạn bắt đầu phân
#Kể từ [[thế kỉ thứ 1]]: Xuất hiện giáo phái [[Đại thừa]] (大乘, sa. ''mahāyāna'') với hai tông phái quan trọng là [[Trung quán tông]] (zh. 中觀宗, sa. ''mādhyamika'') và [[Duy thức tông]] (zh. 唯識宗, sa. ''vijñānavādin'', ''yogācārin'').
#Kể từ [[thế kỉ thứ 7]]: Sự xuất hiện của [[Mật tông]] Phật giáo ([[Phật giáo Tây Tạng]], [[Kim cương thừa]]).
#Sau [[thế kỉ thứ 13]], Phật giáo được xem là bị tiêu diệt tại [[Ấn Độ]], nơi sản sinh đạo Phật.
Từ [[thế kỉ thứ 3]], đạo Phật được truyền đi các nước khác ngoài Ấn Độ và mang nặng bản sắc của các nước đó. Ngày nay, phái [[Tiểu thừa]] (zh. 小乘, sa. ''hīnayāna'') với quan điểm của Thượng
==Phật giáo tại Miến Điện (Myanma)==
Truyền thuyết cho rằng Miến Điện ([[Myanma]]) đã tiếp cận với đạo Phật trong thời [[A-dục vương]] (zh. 阿育王, sa. ''aśoka'', pi. ''asoka'', [[thế kỉ thứ 3 TCN|thế kỉ thứ 3 trước CN]]). Theo một thuyết khác, đạo Phật đã đến Miến Điện trong thời đức Phật còn tại thế, do hai thương nhân từ Ấn Độ mang tới. Những vị này mang theo cả tóc Phật, ngày nay được giữ trong đền Shwe-Dagon tại Rangun ([[Yangon]]).
Kể từ [[thế kỉ thứ 5]], Phật giáo phát triển rực rỡ với sự có mặt của [[Thượng
==Phật giáo tại Tích Lan (Sri Lanka)==
Người ta cho rằng Phật giáo đến Tích Lan ([[Sri Lanka]]) khoảng năm 250 trước Công nguyên, do Ma-hi-đà và Tăng-già-mật-đa (pi. ''saṅghamitta''), hai người con của A-dục vương (sa. ''aśoka'', pi. ''asoka''), truyền từ Ấn Độ. Nhà vua Tích Lan hồi đó là Thiên Ái Đế Tu (pi. ''devānampiya tissa'') trở thành Phật tử và thành lập Đại tự (pi. ''mahāvihāra'') nổi tiếng, nơi đó ông trồng một nhánh [[cây Bồ-đề]] có nguồn từ nơi Phật thành đạo, [[Bồ-đề đạo trường]]. Đại tự trở thành trung tâm của Thượng
Theo thời gian, nhiều tông phái Phật giáo khác thành hình và gây nhiều tranh cãi, đến nỗi có khi nhà vua phải can thiệp. Đó là những tranh luận ban đầu của Tiểu thừa và mầm mống của Đại thừa, của cả Mật tông thời bấy giờ. Cuối cùng, Thượng
Qua [[thế kỉ thứ 16]], [[người Bồ Đào Nha]] vào Tích Lan và tìm cách du nhập [[Kitô giáo|đạo Thiên chúa]]. Đến [[thế kỉ thứ 17]], [[người
==Phật giáo tại Indonesia==
Dòng 66:
==Phật giáo tại Campuchia==
Người ta cho rằng Phật giáo du nhập vào [[Campuchia]] trong [[thế kỉ thứ 3]] sau CN, theo văn hệ [[tiếng Phạn|Phạn ngữ]], trường phái [[Thuyết nhất thiết hữu bộ]] và đạt được đỉnh cao khoảng [[thế kỉ thứ 5]], [[thế kỉ thứ 6|thứ 6]]. Năm [[791]] người ta tìm thấy gần đền Đế Thiên Đế Thích ([[Angkor Wat]]) một văn bản chứng tỏ rằng Đại thừa đã có mặt nơi đây song song với việc thờ thần Thấp-bà (sa. ''śiva''). Sự hỗn hợp này có lẽ bắt nguồn từ việc thờ cúng [[Bồ Tát]] [[Quán Thế Âm]], mà Thấp-bà được xem là một
==Phật giáo tại Thái Lan==
Người ta biết rất ít việc đạo Phật được truyền bá đến [[Thái Lan]]. Kết quả khảo cổ cho thấy Phật giáo đến Thái Lan khoảng [[thế kỉ thứ 6]] từ Miến Điện. Ban đầu giáo lí [[Tiểu thừa]] có ảnh hưởng rộng rãi. Khoảng giữa [[thế kỉ thứ 8]] và [[thế kỉ thứ 13|13]], Đại thừa được truyền bá rộng hơn. Giữa [[thế kỉ thứ 11]] và [[thế kỉ thứ 14|14]], ảnh hưởng của [[Ấn Độ giáo]] bắt đầu phát triển. Trong thế kỉ 13, hoàng gia Thái Lan chính thức công nhận Thượng
==Phật giáo tại Hàn Quốc==
Từ [[Trung Quốc]], Phật giáo lan qua [[Hàn Quốc]] trong [[thế kỉ thứ 4]] sau CN và phát triển rực rỡ nhất là giữa [[thế kỉ thứ 6]] và [[thế kỉ thứ 9|thứ 9]]. Trong thời kì này, các trường phái quan trọng của Trung Quốc đều được thành lập tại Hàn Quốc như [[Thiền tông]], [[Hoa Nghiêm tông]], [[Mật tông]] ([[Chân ngôn tông]]). Bộ kinh ''Bát-nhã ba-la-mật-đa'' (sa. ''prajñāpāramitā-sūtra'') cũng được truyền bá rộng rãi rất sớm tại Hàn Quốc. Người ta cũng tìm thấy nhiều tác phẩm văn
==Tham khảo==
|