Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Boeing B-17 Flying Fortress”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, replaced: → using AWB
n clean up, General fixes using AWB
Dòng 45:
Bất kể những việc ấy, Không lực Mỹ vẫn bị ấn tượng bởi tính năng bay của chiếc nguyên mẫu, nên vào ngày [[17 tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1936|1936]], họ đã thông qua một kẽ hở pháp lý<ref name="Meilinger">{{chú thích tạp chí | last =Meilinger | first =Phillip S. | title =When the Fortress Went Down | journal =Air Force Magazine | volume =87 | issue =9 | pages = | publisher = Air Force Association |date= tháng 10 năm 2004 | url =http://www.afa.org/magazine/Oct2004/1004fort.asp | accessdaymonth =16 tháng 1 năm 2007}}</ref> để đặt hàng 13 chiếc '''YB-17''' (sau tháng 11 năm [[Hàng không năm 1936|1936]] được đổi tên thành '''Y1B-17''') để thử nghiệm hoạt động thực tế. Chiếc YB-17 có những thay đổi đáng kể so với Kiểu 299, bao gồm động cơ [[Wright R-1820]]-39 Cyclone mạnh hơn thay cho kiểu Pratt & Whitneys ban đầu. Cho dù chiếc nguyên mẫu thuộc sở hữu của công ty và chưa bao giờ được gán một ký hiệu quân sự ("bản thân cái tên B-17 chỉ xuất hiện từ tháng 1 năm [[Hàng không năm 1936|1936]], gần ba tháng sau khi chiếc nguyên mẫu bị rơi "),<ref name="Bowers1976.p12">Bowers 1976, trang 12.</ref> cái tên "XB-17" được gán ngược lại cho khung máy bay này và được ghi vào sách vở để mô tả chiếc Flying Fortress đầu tiên cất cánh.
[[Tập tin:B-17s flyby Rex.jpg|nhỏ|trái|Chiếc B-17A đang bay ngang qua tàu hành khách ''Rex'' của Ý]]
Từ ngày [[1 tháng 3]] đến ngày [[4 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1937|1937]], 12 trong tổng số 13 chiếc YB-17 được giao cho Liên đội Ném bom 2 tại căn cứ [[Langley Field]], [[Virginia]], và được sử dụng trong việc phát triển các kỹ thuật ném bom hạng nặng cũng như tìm và sửa lỗi.<ref name="Northstar"/> Có một đề nghị về việc sử dụng một [[danh sách kiểm tra]] nhằm tránh những tai nạn như kiểu chiếc 299.<ref name="Meilinger"/><ref name="Checks2">{{chú thích web |url= http://www.atctraining.faa.gov/afss/history/checklst.htm |title= How the Pilot's Checklist Came About|last = Schamel|first = John|quote = Ý tưởng về danh sách kiểm tra của phi công được lan truyền và áp dụng cho các đội bay và các kiểu máy bay khác của Không Lực, và sau này cho cả ngành hàng không. |accessmonthday=12 tháng 1 |accessyear=2007|format= |work= FAA Flight Service Training}}</ref> Ở một trong những phi vụ đầu tiên, ba chiếc B-17 do một hoa tiêu tiên phong là [[Trung úy]] [[Curtis LeMay]] dẫn đầu, được tướng Andrews phái đi "đánh chặn" chiếc tàu hành khách Ý ''[[SS Rex|Rex]]'' ở khoảng cách 980&nbsp;km (610 dặm) ngoài khơi Đại Tây Dương và chụp ảnh. Phi vụ hoàn toàn thành công này được loan báo rộng rãi trong công luận.<ref name="Maurer">Maurer 1987, trang 406-408.</ref><ref name="USAF Rex">{{chú thích web | url = http://www.nationalmuseum.af.mil/factsheets/factsheet.asp?id=2480 | title = Intercepting The “Rex”"Rex" | accessmonthday = 9 tháng 1 |accessyear=2007| last = | first = | date = | work = National Museum of the USAF | quote = }}</ref> Chiếc YB-17 thứ 13 được giao cho Bộ phận Hậu cần của căn cứ [[Wright Field]], [[Ohio]], để dùng bay thử nghiệm.<ref name="Y1B-17">{{chú thích web |url= http://www.nationalmuseum.af.mil/factsheets/factsheet.asp?id=2500 |title= BOEING Y1B-17 |accessmonthday=9 tháng 1 |accessyear=2007|work= National Museum of the USAF}}</ref>
 
Chiếc YB-17 thứ 14 (số hiệu ''37-369''), ban đầu được chế tạo để thử nghiệm trên mặt đất về độ bền của khung máy bay, được nâng cấp và trang bị bộ turbo tăng áp vận hành bằng khí xả. Được lên kế hoạch để bay vào năm [[Hàng không năm 1937|1937]], nó gặp phải nhiều vấn đề về bộ turbo tăng áp nên chuyến bay đầu tiên bị hoãn đến [[29 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1938|1938]].<ref name="Donald">{{cite encyclopedia | editor = David Donald | encyclopedia =The Encyclopedia of World Aircraft | title = Boeing Model 299 (B-17 Flying Fortress) || edition = 1 | date = 1997|publisher = Prospero Books|location = Etobicoke, Ontario, Canada|isbn =1-85605-375-X|pages = trang 155}}</ref> Việc cải tiến làm Boeing tiêu tốn mất 100.000 đô la và mãi cho đến mùa Xuân năm [[Hàng không năm 1939|1939]] mới hoàn thành, nhưng mang lại kết quả là gia tăng trần bay và tốc độ tối đa.<ref name="Goebel.YB-17A">{{chú thích web |last = Goebel |first =Greg |url= http://www.vectorsite.net/avb17_1.html#m3 |title= Y1B-17/Y1B-17A |year =2005 |accessmonthday=9 tháng 1 |accessyear=2007|format= |work= The Boeing B-17 Flying Fortress|quote=}}</ref> Chiếc máy bay được giao cho Lục quân ngày [[31 tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1939|1939]] và được đặt tên là '''B-17A''' để nhấn mạnh phiên bản biến thể hoạt động đầu tiên.<ref name="Baugher B-17A">{{chú thích web |last = Baugher
Dòng 119:
B-17 được sử dụng trong các trận chiến ban đầu tại Thái Bình Dương nhưng đem lại ít kết quả, đáng kể là trong các [[Trận chiến biển Coral]] và [[Trận Midway]]. Trong lúc đó, những chiếc B-17 thuộc [[Không lực 5]] được giao nhiệm vụ phá vỡ các đường vận chuyển trên biển của Nhật. Học thuyết của Không lực hướng dẫn việc bay ném bom từ tầm cao, nhưng được phát hiện không lâu sau đó là chỉ có 1% bom trúng đích. Dù sao, B-17 hoạt động ở độ cao lớn đến mức đa số những chiếc máy bay tiêm kích [[Mitsubishi A6M Zero|A6M Zero]] không thể đạt tới, và trang bị vũ khí phòng thủ rất mạnh của chiếc B-17 là quá đủ cho những chiếc máy bay tiêm kích Nhật Bản vốn được bảo vệ khá mong manh.
 
Chỉ huy của [[Không lực 5]], Trung tướng [[George Kenney]], là một người rất hâm hộ kỹ thuật mới [[cắt ném bom]] (skip bombing) (một kỹ thuật ném bom mà bom được thả ở độ cao rất thấp, khiến bom chạm mặt nước ở một góc đủ nông để nó được “cắt”"cắt" hay uốn cong xuống). Vào ngày [[2 tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]], sáu chiếc B-17 thuộc Phi Đội 64 đã tấn công một đoàn tàu vận tải binh lính từ độ cao 3&nbsp;km (10.000&nbsp;ft) trong giai đoạn đầu của [[trận chiến biển Bismarck]] ngoài khơi [[New Guinea]], đã áp dụng cách cắt bom và đánh chìm ba tàu buôn Nhật, trong đó có chiếc ''Kyokusei Maru''.<ref name="Frisbee">{{chú thích tạp chí | last =Frisbee | first =John L. | title =Valor:Skip-Bombing Pioneer | journal =Air Force Magazine | volume =73 | issue =12 | pages=|publisher =|date =tháng 12 năm 1990|url =http://www.afa.org/magazine/valor/1290valor.asp | accessdaymonth =9 tháng 1 năm 2007}}</ref> Một chiếc B-17 đã bị máy bay [[Mitsubishi A6M Zero|A6M Zero]] xuất phát từ [[New Britain]] bắn rơi, và sau đó viên phi công Nhật này đã dùng súng máy bắn vào một vài thành viên đội bay B-17 khi họ hạ xuống bằng dù rồi tiếp tục tấn công họ trên mặt nước.<ref name="awm">{{Chú thích web | url = http://www.awm.gov.au/atwar/remembering1942/bismark/ | title = Anniversary talks - Battle of the Bismarck Sea, 2-4 tháng 3 năm 1943 | accessdate = 2009-11-03 | last = Brad | first = Manera | year = 2003 }}</ref> Sau đó, 13 chiếc B-17 đã ném bom đoàn tàu vận tải này từ độ cao trung bình, khiến các con tàu phải phân tán và kéo dài hành trình. Cuối cùng tất cả đoàn tàu vận tải đều bị tiêu diệt do sự phối hợp tấn công càn quét tầm thấp của những chiếc [[Bristol Beaufighter|Beaufighter]] của [[Không quân Hoàng gia Úc]], và việc cắt ném bom của những chiếc [[North American B-25 Mitchell|B-25 Mitchell]] của Không lực Mỹ ở độ cao 30&nbsp;m (100&nbsp;ft), trong khi những chiếc B-17 có được năm quả bom ném trúng đích ở tầm cao.<ref name="Frisbee"/>
 
Chỉ có năm liên đội B-17 hoạt động tại [[Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Thế Chiến II|Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương]]. Vào lúc cao điểm có 168 chiếc máy bay ném bom B-17 hoạt động tại mặt trận này vào thời điểm [[tháng chín|tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]], tất cả đều chuyển sang loại máy bay khác vào giữa năm [[Hàng không năm 1943|1943]].
Dòng 135:
Chiếc B-17 được ghi nhận là có khả năng chịu đựng hư hại trong chiến đấu mà vẫn đến ̣được mục tiêu và đưa đội bay quay về căn cứ an toàn. Wally Hoffman, một phi công B-17 của Không Lực 8 trong Thế Chiến II, đã nói: "Chiếc máy bay có thể bị cắt và chém hầu như ra thành từng mảnh do hỏa lực đối phương và vẫn có thể mang đội bay của nó quay về nhà."<ref name="Hoffman">{{chú thích web | url = http://www.storyhouse.org/wally6.html | title = We Get Our Feet Wet | accessmonthday = 18 July |accessyear=2006| last = Hoffman | first = Wally | date = 2006 | work = Magweb.com | quote = }}</ref> Martin Caidin báo cáo về một tình huống mà một chiếc B-17 bị va chạm trên không cùng một chiếc Focke-Wulf 190, mất một động cơ và bị hư hại nghiêm trọng cả cánh ổn định ngang bên phải cùng cánh đuôi, và bị loại ra khỏi đội hình do cú va chạm. Chiếc máy bay được báo cáo bởi các quan sát viên là bị bắn rơi, nhưng nó vẫn sống sót và đưa được đội bay quay về mà không bị thương tích gì.<ref name="Caidin.p86">Caidin, Martin. ''Black Thursday''. New York: E.P. Dutton & Co. Inc., 1960, trang 86. ISBN 0-553-26729-9.</ref> Sự bền bỉ của nó đã bù đắp nhiều hơn cho tầm bay ngắn hơn và tải trọng bom ít hơn khi so với những chiếc máy bay ném bom hạng nặng Consolidated [[Consolidated B-24 Liberator|B-24 Liberator]] hoặc chiếc [[Avro Lancaster]] Anh Quốc. Những câu chuyện đầy dẫy về những chiếc B-17 quay về căn cứ với đuôi bị phá hủy, chỉ còn một động cơ hoạt động, hay thậm chí một diện tích cánh lớn bị [[pháo phòng không]] gây hư hại.<ref name="Daves">{{chú thích web| url = http://www.daveswarbirds.com/b-17/| title = Battle-damaged B-17s| accessmonthday = 16 tháng 1 năm |accessyear=2007| date =|format =|work =|publisher = www.daveswarbirds.com|pages =}}</ref> Sự bền bỉ này, cùng với số lượng lớn máy bay hoạt động trong [[Không lực 8]] và danh tiếng mà chiếc [[Memphis Belle (B-17)|"Memphis Belle"]] đạt được, làm cho chiếc B-17 trở thành máy bay ném bom nổi bật nhất trong cuộc chiến tranh.
 
Thiết kế của chiếc B-17 trải qua tám thay đổi lớn trong suốt quá trình sản xuất, tích lũy lại nơi phiên bản B-17G, khác biệt phiên bản ngay trước nó bằng việc bổ sung một tháp súng “cằm”"cằm" gồm hai súng máy 12,7&nbsp;mm (0,50 inch) [[M2 Browning]] dưới mũi máy bay. Điều này đã cho phép hạn chế được điểm yếu kém chính trong phòng thủ của chiếc B-17 khi bị tấn công trực diện.
 
=== B-17 và Không quân Đức ===
Dòng 143:
Sau khi khảo sát xác những chiếc B-17 và B-24 bị bắn rơi, các quan chức [[Không quân Đức]] khám phá ra rằng phải bắn trúng ít nhất 20 phát đạn pháo [[MG 151]] 20&nbsp;mm (0,79 inch) bắn từ phía sau mới có thể bắn hạ một chiếc B-17. Những phi công với khả năng trung bình chỉ có thể bắn trúng những chiếc máy bay ném bom với khoảng 2% số đạn bắn ra, cho nên để đạt được 20 phát trúng, một phi công trung bình phải ngắm bắn khoảng một ngàn quả đạn pháo 20&nbsp;mm (0,79 inch) vào chiếc máy bay ném bom. Những phiên bản đầu tiên của chiếc [[Focke-Wulf Fw 190|Fw 190]], một trong những máy bay tiêm kích đánh chặn tốt nhất của Đức, được trang bị hai pháo [[MG FF]] 20&nbsp;mm (0,79 inch) và chỉ mang theo được 500 quả đạn. Tầm bắn 400 m của chiếc máy bay tiêm kích cũng ngắn hơn tầm bắn 1.000 m của chiếc B-17, nên nó trở nên mong manh khi tiếp cận chiếc máy bay ném bom, cho dù sau đó với kiểu pháo [[MG 151|Mauser MG 151/20]] tốt hơn, có tầm bắn hiệu quả cao hơn so với kiểu MG FF. Phi công tiêm kích Đức nhận ra rằng khi tấn công trực diện, nơi có ít khẩu súng phòng thủ được ngắm đến, chỉ cần bốn hay năm phát trúng là có thể bắn hạ chiếc máy bay ném bom.<ref name="AFM.76-9">{{chú thích tạp chí | last = Price | first =Alfred | title =Against Regensburg and Schweinfurt | journal =Air Force Magazine | volume = 76 | issue = 9 | pages = | publisher =|date=tháng 9 năm 1993|url= http://www.afa.org/magazine/1993/0993against.asp | accessdaymonth =10 tháng 1 năm 2007}}</ref> Để sửa chữa thiếu sót của chiếc Fw 190, số khẩu pháo trên chiếc máy bay tiêm kích được tăng gấp đôi thành bốn khẩu và số lượng đạn cũng được tăng thên tương ứng, và đến năm [[Hàng không năm 1944|1944]] được nâng cấp lên kiểu pháo [[Rheinmetall]]-[[Borsig]] [[MK 108]] 30&nbsp;mm (1,2 inch), cho phép bắn hạ chiếc máy bay ném bom chỉ trong vài phát trúng.
 
Không quân Đức cũng áp dụng vào giữa [[tháng tám|tháng 8]] năm [[hàng không năm 1943|1943]], như một kiểu tấn công “cân"cân bằng”bằng", loại vũ khí cối rocket ''Werfer-Granate 21'' (Wfr. Gr. 21) phóng ra từ những ống phóng hình trụ gắn một chiếc cố định dưới mỗi cánh trên những chiếc máy bay tiêm kích một động cơ của Không quân Đức, và hai ống phóng dưới mỗi cánh trên một số chiếc máy bay tiêm kích hạng nặng ban ngày [[Messerschmitt Bf 110|Bf 110]], với kỳ vọng chúng sẽ là vũ khí chống ném bom chủ lực. Tuy nhiên, do tính chất đường đạn đi xuống của rocket khi bắn ra, ngay cả khi ống phóng được gắn chếch lên một góc 15°, và cũng do số ít máy bay được trang bị loại vũ khí này, kiểu cối rocket Wfr.Gr. 21 chưa bao giờ có ảnh hướng lớn đến đội hình chiến đấu của những chiếc Fortress. Cũng phải kể đến những nỗ lực của Không quân Đức nhằm trang bị các khẩu pháo cỡ lớn ''Bordkanone'' cỡ nòng 37, 50 và thậm chí là 75&nbsp;mm (2,95 inch) trên những máy bay hai động cơ như là kiểu tiêm kích đặc biệt [[Junkers Ju 88|Ju 88P]], và ngay cả trên một phiên bản của kiểu máy bay [[Messerschmitt Me 410|Me 410]] ''Hornisse''. Dù sao, các loại vũ khí chống ném bom này ít có hiệu quả trên các đợt tấn công ném bom chiến lược của Hoa Kỳ.
 
Chiếc [[Messerschmitt Me 262|Me 262]] cũng ghi được những thắng lợi trung bình trên chiếc B-17 trong giai đoạn sau của cuộc chiến. Với vũ khí trang bị thường xuyên gồm bốn pháo [[MK 108]] gắn trước mũi, và trên một số phiên bản còn được trang bị rocket [[R4M]] mang trên đế dưới cánh, nó có thể bắn từ bên ngoài tầm của những khẩu súng máy 0,50 in phòng thủ của chiếc máy bay ném bom, và bắn hạ nó chỉ với một phát trúng duy nhất.<ref name="Schollars">{{chú thích web| url = http://www.findarticles.com/p/articles/mi_m0IBO/is_3_27/ai_111852898| title = German wonder weapons: degraded production and effectiveness| accessmonthday = 16 tháng 1 |accessyear=2007| last = Schollars| first = Todd J. | date = 2003| format = | work = Air Force Journal of Logistics| publisher = }}</ref>
Dòng 236:
Hai phiên bản của chiếc B-17 đã bay dưới những tên khác, đó là chiếc [[Boeing XB-38 Flying Fortress|XB-38]] và chiếc [[YB-40 Flying Fortress|YB-40]]. Chiếc '''XB-38''' là một nền tảng dùng trong thử nghiệm kiểu động cơ [[Allison V-1710]] làm mát bằng nước, dự phòng trường hợp kiểu động cơ Wright được sử dụng bình thường trên chiếc B-17 không sẵn có. Chiếc '''YB-40''' là một phiên bản cải tiến dựa trên chiếc B-17 tiêu chuẩn được vũ trang mạnh, được sử dụng trước khi kiểu máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa rất hiệu quả [[North American P-51 Mustang|P-51 Mustang]] được đưa ra hoạt động hộ tống việc ném bom. Vũ khí bổ sung bao gồm một tháp súng vận hành bằng điện tại phòng điện báo, tháp súng cằm (được tiếp tục trở thành trang bị tiêu chuẩn trên phiên bản B-17G) và hai súng máy 12,7&nbsp;mm (0,50 inch) bên hông. Tổng số đạn được mang theo là trên 11.000 viên, làm cho chiếc YB-40 nặng hơn trên 4.500&nbsp;kg (10.000&nbsp;lb) so với một chiếc B-17F chất đầy tải. Không may là, chiếc YB-40 với rất nhiều trang bị nặng gặp phải vấn đề không theo kịp tốc độ những chiếc máy bay ném bom rỗng, và do đó, cùng với sự ra đời của chiếc P-51 Mustang, kế hoạch bị dừng và cuối cùng kết thúc vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]].<ref name="Baugher XB-38">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_9.html |title= Vega XB-38 |dateformat=dmy |accessdate=15 tháng 1 năm 2007|work= Encyclopedia of American Aircraft}}</ref><ref name="Baugher YB-40">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_12.html |title= Boeing YB-40 |dateformat=dmy |accessdate=15 tháng 1 năm 2007|work= Encyclopedia of American Aircraft}}</ref>
 
Vào cuối Thế Chiến II, có ít nhất 25 máy bay B-17 được dùng làm máy bay giả, trang bị hệ thống điều khiển bằng radio và chất đầy 9.000&nbsp;kg (20.000&nbsp;lb) chất nổ [[Torpex]] và [[Trinitrotoluen|TNT]], được đặt tên là "tên lửa '''BQ-7''' [[Chiến dịch Aphrodite|Aphrodite]]", và được sử dụng để chống lại các hầm ngầm chứa tên lửa [[V-1]] và các [[công sự]] đề kháng bom. [[Chiến dịch Castor]] được bắt đầu vào ngày [[23 tháng 6]] năm [[hàng không năm 1944|1944]], sử dụng Liên đội Ném bom 388 tại [[Knettishall]]. Một sân bay tại vùng dân cư thưa thớt của [[Norfolk]] được chọn làm [[Căn cứ Không quân Hoàng gia Fersfield]] gần [[Winfarthing]]. Máy bay giả sử dụng thường là một chiếc B-17 Fortress, và do một máy bay [[B-34 Ventura]] điều khiển để đâm vào mục tiêu.<ref name="Ramsey">Ramsey, Winston G. ''The V-Weapons''. London, United Kingdom: ''After The Battle'', Số 6, 1974, trang 21.</ref> Bốn chiếc “tên"tên lửa”lửa" kiểu này đã được gửi đến [[Mimoyecques]], [[Siracourt]], [[Watten, Nord|Watten]] và [[Wizernes]] vào ngày [[4 tháng 8]], và chỉ gây thiệt hại nhẹ. Vào ngày [[6 tháng 8]], có thêm hai chiếc B-17 đâm xuống Watten với chút ít thành công. Dự án này đột ngột bị hủy bỏ sau khi có một vụ nổ máy bay trên không trung không giải thích được tại khu vực cửa sông [[Blyth]], liên quan đến một chiếc [[Consolidated B-24 Liberator|Liberator]] trong thành phần lực lượng của [[Hải quân Hoa Kỳ]] tham gia "Kế hoạch Anvil", đang trên đường đi đến [[Heligoland]] và do Trung úy phi công [[Joseph P. Kennedy Jr.]], anh trai của [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống Mỹ]] tương lai [[John F. Kennedy]], điều khiển. Mảnh vỡ của vụ nổ trải rộng một khu vực có đường kính lên đến 8&nbsp;km (5 dặm), và các quan chức Anh lo lắng rằng những tai nạn tương tự có thể lại xảy ra.<ref name="Ramsey"/> Vì hầu như rất ít (hoặc không có) chiếc BQ-7 nào trúng đích, những chiếc trong kế hoạch Aphrodite bị tháo bỏ vào năm [[Hàng không năm 1945|1945]].<ref name="Baugher BQ-7">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_14.html |title= History of the BQ-7 |dateformat=dmy |accessdate=15 tháng 1 năm 2007|work= Encyclopedia of American Aircraft}}</ref><ref name="Parsch">{{chú thích web | last = Parsch | first = Andreas |url = http://www.designation-systems.net/dusrm/app1/bq-7.html | title = Boeing BQ-7 Aphrodite|dateformat = dmy |accessdate=16 tháng 1 năm 2007 | year = 2003 | month = 3 | work = Directory of U.S. Military Rockets and Missiles | quote = }}</ref>
 
Trong và sau Thế Chiến II, một số loại vũ khí được thử nghiệm và sử dụng trên chiếc B-17, trong số đó có bom lượn "razon" (điều khiển bằng radio), và [[Ford]]-[[Republic]] [[JB-2 Loon]] (còn có tên lóng là Thunderbugs), một kiểu mẫu sao chép kỹ thuật của Mỹ từ kiểu bom bay Đức [[V-1]]. Một đoạn phim về chiếc V-1/JB-2 đang bay trên không được sử dụng rộng rãi trong nhiều phim tài liệu về [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]] thực ra được quay từ một máy bay Không lực Mỹ [[Douglas A-26 Invader|A-26]] tại [[Căn cứ Không quân Eglin]], và được phóng từ đảo Santa Rosa, Florida. Vào cuối những năm [[Thập niên 1950|1950]], những chiếc B-17 cuối cùng hoạt động trong Không quân Hoa Kỳ là những máy bay mục tiêu giả '''QB-17''' và máy bay điều khiển mục tiêu giả '''DB-17P''', cùng một vài chiếc '''VB-17''' tân trang được sử dụng linh tinh tại các phi đội.
Dòng 245:
Chiếc B-17 Flying Fortress, vì nhiều lý do, đã trở nên một biểu trưng cho sức mạnh của Hoa Kỳ và cũng là một biểu trưng của Không lực nước này. Nó đạt được một tiếng tăm kéo dài trong công luận, vượt quá đa số các máy bay ném bom khác.<ref name="Johnsen 2006"/>
 
Trong những năm [[Thập niên 1930|1930]], Không lực Lục quân Hoa Kỳ, dưới sự lãnh đạo của Tướng [[Frank Maxwell Andrews]] và Trường Chiến thuật Không lực, đã giới thiệu chiếc máy bay ném bom này như là một vũ khí chiến lược.<ref name="Tate.149">Tate 1998, trang 149–150. Trích dẫn: Báo cáo của Ủy ban Howell… khẳng định "…một lực lượng tấn công thích đáng được sử dụng chống lại các mục tiêu cả gần và xa là một nhu cầu của một quân đội hiện đại…”đại…"</ref> Tướng [[Henry H. Arnold]], tư lệnh Không lực Lục quân Mỹ, chủ trương phát triển máy bay lớn hơn có tính năng bay tốt hơn và Trường Chiến thuật đã hoàn toàn tán thành.<ref name="Tate.161">Tate 1998, trang 161. Trích dẫn: Đối với họ dường như là chiếc máy bay ném bom là vô địch. Họ tranh luận rằng cường kích đã lỗi thời và tấn công là một điều xa xỉ, vì không lực sẽ có hiệu quả nhất khi được sử dụng để can thiệp sâu trong lãnh thổ đối phương và ném bom chiến lược nhằm phá hủy phương tiện và ý chí chiến đấu của đối phương.</ref> Chiếc B-17 đúng là những gì mà Không lực đang tìm kiếm; nó là kiểu máy bay ném bom bay ở tầm cao, quãng đường bay xa và có khả năng tự phòng vệ.
 
Khi chiếc Kiểu 299 lần đầu tiên ra mắt vào ngày [[28 tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1935|1935]], tua tủa với nhiều khẩu [[súng máy]] được trang bị, Richard Williams, một thông tín viên của tờ báo [[The Seattle Times|''Seattle Times'']] đã đặt ra cái tên "Flying Fortress" với lời bình luận của ông "Tại sao, nó là một pháo đài bay được!".<ref name="Baugher 299"/> Boeing nhanh chóng nhận ra giá trị của cái tên và đã đăng ký nhãn hiệu để sử dụng nó.
Dòng 251:
Sau khi những chiếc B-17 đầu tiên được giao đến Liên đội Ném bom 2 Không lực Mỹ, họ bắt đầu thực hiện những chuyến bay quãng bá nhằm nhấn mạnh tầm bay xa và khả năng dẫn đường chính xác. Vào [[tháng một|tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1938|1938]], Chỉ huy Liên đội là Đại tá Robert C. Olds đã bay chiếc Y1B-17 từ bờ Đông đến bờ Tây nước Mỹ, lập một kỷ lục bay xuyên lục địa trong 13 giờ 27 phút. Ông cũng phá kỷ lục bay từ Tây sang Đông trong chuyến bay trở về, đạt tốc độ trung bình 394&nbsp;km/h (245 dặm mỗi giờ) trong 11 giờ 1 phút.<ref name="Zamzow">Zamzow 2008, trang 42-43.</ref> Sáu chiếc máy bay thuộc Liên đội Ném bom 2 đã cất cánh từ [[Căn cứ Không quân Langley]] vào ngày [[15 tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1938|1938]] để bay chuyến bay hữu nghị đến [[Buenos Aires, Argentina]]. Trải qua quãng đường 19.300&nbsp;km (12.000 dặm), họ quay trở về vào ngày [[27 tháng 2]].<ref name="Baugher Y1B-17"/> Trong một phi vụ được công bố rộng rãi trên báo chí, ba chiếc B-17 đã "đánh chặn" và chụp ảnh chiếc tàu hành khách vượt đại dương Italy ''[[SS Rex|Rex]]'' ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương.<ref name="USAF Rex"/>
 
Chiếc Flying Fortress cũng chiếm được nhận thức và thiện cảm của công chúng. Vào năm 1943, [[Consolidated Aircraft]] tiến hành thăm dò ý kiến xem “công"công chúng quen thuộc đến mức nào những cái tên Liberator và Flying Fortress." Trong số 2.500 đàn ông tại các thành phố nơi mà Consolidated có thực hiện quảng cáo trên báo chí, chỉ có 73% từng nghe đến Liberator, trong khi đến 90% biết về chiếc B-17.<ref name="Johnsen 2006"/>
[[Tập tin:B-17 Damage Cologne.jpg|nhỏ|phải|Chiếc B-17G số hiệu [http://www.398th.org/Images/Images_Aircraft_B-17/Text/43-38172-3O-P_19441015_JBk.html ''43-38172''] thuộc Phi đội 601, Liên đội Ném bom 398, bị hư hại trong phi vụ ném bom xuống [[Köln|Cologne]], [[Đức]], vào ngày [[15 tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]]; sĩ quan ném bom George E. Abbott bị thiệt mạng. Phi công Trung úy Lawrence De Lancey đã đem chiếc Fortress bị hư hại quay trở về được [[Nuthampstead]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]], nơi ảnh được chụp. Chú ý đến hiệu quả hướng lên trên của trái đạn pháo phòng không.]]
 
Dòng 360:
* Trung tá [[Nancy Harkness Love|Nancy Love]] (1914–1976) và [[Betty Gillies|Betty (Huyler) Gillies]] (1908–1998): Những phụ nữ đầu tiên đạt chuẩn bay B-17 vào năm 1943.<ref name="museum2">{{chú thích web| url = http://www.nationalmuseum.af.mil/factsheets/factsheet.asp?id=1557| title = National Museum of the USAF, Biography of Nancy Harkness Love}}</ref>
* Đại tá [[Robert K. Morgan]] (1918–2004): Phi công chính của chiếc ''Memphis Belle''.
* Trung tá [[Robert Rosenthal (Không quân Mỹ)|Robert Rosenthal]] (1917–2007): chỉ huy chiếc B-17 "Rosie's Riveters" duy nhất còn sống sót trong cuộc không kích của Liên đội Ném bom 100 thuộc Không lực 8 xuống [[Münster]] năm 1943, được tặng thưởng 16 huân chương (kể cả một chiếc của Anh và một của Pháp), và đã dẫn đầu cuộc ném bom xuống Berlin ngày [[3 tháng 2]] năm [[1945]] được cho là đã kết thúc mạng sống của Thẩm phán [[Roland Freisler]], một tên “đồ"đồ tể”tể" của [[Đệ Tam đế chế (Đức)|Đệ Tam đế chế]].
* Chuẩn tướng [[Paul Tibbets]] (1915–2007): Từng bay cùng Liên đội Ném bom hạng nặng 97 cho cả Không lực 8 tại Anh và Không lực 12 tại Bắc Phi; sau này là phi công lái chiếc [[Boeing B-29 Superfortress|B-29]] [[Enola Gay]] thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống [[Hiroshima]], Nhật Bản.
* [[Robert Webb (phi công)|Robert Webb]] (1922–2002):, được tặng thưởng huân chương Chữ thập bay Dũng cảm.
* Trung úy [[Eugene Emond]] (1921–1998): phi công lái chiếc B-17 “Man"Man O War II”II", được tặng thưởng huân chương Chữ thập bay Dũng cảm cùng nhiều huân chương khác. Ông từng chứng kiến tận mắt một trong những máy bay phản lực đầu tiên khi một chiếc [[Messerschmitt Me 262|Me 262]] bay qua đội hình của ông trên bầu trời Đức. Là một trong những phi công ném bom trẻ nhất của Không lực Mỹ.
* Trung úy [[Emil "Mickey" Cohen]] (1924–2008): Biệt danh "The Kid" (em bé). Bay cùng Phi đội 709, Liên đội Ném bom 447 tại Rattlesden, Anh Quốc. Lái chiếc “Barbara"Barbara Jane”Jane" cùng hai phi vụ trên chiếc “The"The Blue Hen Chick”Chick". Là phi công B-17 trẻ nhất của Không lực 8 và có thể là phi công ném bom trẻ nhất của Không lực Lục quân Hoa Kỳ.
 
=== Các thành tích và sự kiện dân sự ===