Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tần Lương Ngọc”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, General fixes using AWB |
|||
Dòng 4:
==Xuất thân==
Cha của Tần Lương Ngọc là Tần Quỳ, xuất thân Cống sinh. Từ nhỏ bà đã chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng phong kiến
Căn cứ vào [[mãng bào]] '''Lam đoạn bình kim tú''' (thân áo dài 171 cm, tay áo dài 96,5 cm) của Tần Lương Ngọc được chuyển từ Văn hóa quán của huyện Thạch Trụ đến Trùng Khánh bác vật quán, ước đoán bà cao đến 1m86.
==Tổ chức
Năm Vạn Lịch thứ 23 (1595), bà được gả cho Thạch Trụ tuyên phủ sứ (Thổ ti) [[Mã Thiên Thừa]], dòng dõi Phục Ba tướng quân [[Mã Viện]] [[nhà Hán]]. Bà nói riêng với chồng rằng:
Hai vợ chồng cùng nhau tổ chức nên một đội quân tinh nhuệ, xa gần đều kiêng dè. Binh sĩ Thạch Trụ đặc chế một loại trường mâu, đầu có dạng móc, đuôi có hình tròn, khi gặp địa hình núi non hiểm trở, người trước có thể chèo kéo người sau mà đi, nhanh nhẹn như vượn. Họ đều dùng loại gỗ trắng, không sơn đen làm cán mâu, nên được người đời gọi là
Mã Thiên Thừa
==Tham gia dẹp loạn Dương Ứng Long==
Năm Vạn Lịch thứ 27 (1599), thổ ti ở khu vực Bá Châu<ref>Nay là [[Tuân Nghĩa]], [[Quý Châu]]</ref> là [[Dương Ứng Long]] (1551 – 1600) khởi nghĩa, liên tục chiếm được các địa phương chiến lược trọng yếu [[Trùng Khánh]], [[Lô Châu, Tứ Xuyên|Lư Châu]],… vây đánh [[Thành Đô]]. Mã Thiên Thừa soái 3000 quân Thạch Trụ tòng chinh, làm tròn nghĩa vụ của một thổ ti địa phương.
Tần Lương Ngọc cũng thống lĩnh 500 binh sĩ tinh nhuệ, tự chuẩn bị ngựa nghẽo quân nhu, cùng Phó tướng Chu Quốc Trụ chẹn giữ ở Đặng Khảm <ref>Nay là [[Phượng Cương]], Quý Châu</ref>, giương cung múa kiếm chém giết nghĩa quân. Tổng đốc Lý Hóa Long <ref>(1554 – 1611) đại thần [[nhà Minh]], là nguyên nhân trực tiếp khiến Dương Ứng Long nổi dậy; không phải tướng [[nhà Thanh]] (? – 1789) chết trận ở [[Việt Nam]]. "Lý Hóa Long" là một cái tên thường gặp của người Trung Quốc</ref> lấy làm lạ lùng, tặng cho bà một tấm ngân bài, trên mặt có 4 chữ
Ngày 2 tháng giêng năm Vạn Lịch thứ 28 (1600), nghĩa quân nhân lúc quan quân có tiệc, tập kích vào ban đêm. Quan quân nhà Minh đang lúc say sưa vui vẻ, nên thảng thốt bỏ chạy. May mà vợ chồng Mã Thiên Thừa sớm có đề phòng, nghiêm cấm Bạch Can binh không được uống rượu, suốt đêm cầm mâu mặc giáp, trông giữ những chỗ hiểm yếu. Hai vợ chồng lập tức chỉ huy Bạch Can binh đánh trả, nghĩa quân trước thắng sau thua, bị trường mâu kéo ngã vô số, quay mình bỏ chạy. Vợ chồng Mã Thiên Thừa đuổi theo không tha, vào tận sào huyệt của nghĩa quân, phá được trại Kim Trúc, Minh Nguyệt quan, Đại Than quan… liên tiếp 7 nơi, đến thẳng Tang Mộc quan, sào huyệt cuối cùng của Dương Ứng Long.
Dòng 31:
Tháng 6 năm Vạn Lịch thứ 48 (1620), quân [[Nhà Thanh|Hậu Kim]] xâm nhập Liêu Đông, triều đình kêu gọi cả nước tòng chinh viện Liêu, Tần Lương Ngọc một mặt sai anh trai Bang Bình, em trai Dân Bình soái 5000 Bạch Can binh đi trước, một mặt tự mình đếm ngựa kiểm lương, đảm bảo việc cung ứng hậu cần. Vì việc này, nhà Minh ban cho bà quan phục tam phẩm. Bang Bình, Dân Bình sau khi đến [[Liêu Dương]], phụng mệnh trấn thủ khu vực phụ cận Hồn Hà ở tây nam [[Thẩm Dương]].
Tháng 3 năm Thiên Khải đầu tiên (1621), quân Hậu Kim vây khốn Thẩm Dương. Bọn Bang Bình phụng mệnh chi viện, quân đến [[Hồn Hà,]] được tin Thẩm Dương thất thủ, các cánh quân đều căm giận mà thở dài, Bạch Can binh ra roi quất ngựa, dũng mãnh vượt sông. Họ vừa lập doanh trại ở phía bắc cầu, đã gặp quân địch 4 mặt tập kích, cùng hơn 1 vạn quân bạn chống lại mấy vạn quân địch, giết được vài ngàn quân địch. Trong lúc ác chiến, chủ lực quân địch đến kịp, quân Minh ít không chống nổi nhiều, Bang Bình soái bộ hạ liều mạng đánh giết, cùng hơn ngàn binh sĩ bỏ mình trên sa trường, Dân Bình bị thương, đột vây thoát hiểm. Đây là lần thứ nhất huyết chiến đầu tiên của 2 nước Minh – Hậu Kim ở Liêu Tả <ref name="M1"/>. Binh bộ thượng thư Trương Hạc Minh tấu rằng:
Tháng 4 cùng năm, nghe tin anh trai hy sinh, Tần Lương Ngọc làm ra 1500 bộ áo ấm, cấp cho binh sĩ Thạch Trụ, tiếp đó lại tự mình thống lĩnh 3000 quân tinh nhuệ cùng con trai [[Mã Tường Lân]] lên bắc, trấn thủ Du quan <ref>Nay là Sơn Hải quan</ref>, ở khu vực phụ cận gặp quân Hậu Kim. Trong lúc giao chiến, mắt của Mã Tường Lân bị trúng tên, anh ta nhổ tên mà tiếp tục đánh giết, quân địch sợ hãi thối lui, nên được trong quân gọi là
==Tham gia dẹp loạn Xa Sùng Minh==
Dòng 53:
Khi ấy, các lộ quân Cần vương cả thảy có hơn 20 vạn, nhưng đều khiếp sợ quân đội Bát Kỳ của Mãn Châu, không ai dám đi đầu ra đánh. Bạch Can binh tuy chỉ có mấy ngàn, chẳng những không e dè người Mãn Châu, ngược lại quân Bát Kỳ nghe tiếng reo hò xung sát của Bạch Can binh, nhớ lại trận huyết chiến Hồn Hà thì khiếp vía. Hoàng Thái Cực vì chưa chiếm được Du quan, lo sợ bị cắt mất đường về, buộc phải lui quân.
Sau khi quân Hậu Kim ra khỏi [[Vạn Lý Trường Thành|Trường Thành]], [[minh Tư Tông|vua Sùng Trinh]] triệu kiến Tần Lương Ngọc ở Bình Đài, xuống chiếu khen ngợi, sắc phong Nhất phẩm phu nhân, gia phong Thiếu bảo, đeo ấn Trấn đông tướng quân; ban cho tiền, lụa và rượu ngự, rồi làm 4 bài thơ để biểu dương công lao của bà. Đây là vinh dự chưa từng có đối với một thủ lĩnh địa phương ở biên thùy tây nam trong lịch sử Trung Quốc. Tại ngõ Tứ Xuyên Doanh, Tuyên Vũ môn, [[Bắc Kinh]] ngày nay vẫn còn di chỉ nơi đóng quân của bà. Trên cửa có 12 chữ:
Năm Sùng Trinh thứ 6 (1633), bà từ kinh sư trở về, chuyên trách việc phòng vệ Xuyên Đông. Mã Tường Lân (con trai), Trương Phượng Nghi (con dâu), Tần Dực Minh (cháu trai) ở lại kinh sư.
Dòng 60:
Năm [[Sùng Trinh]] thứ 7 ([[1634]]), [[Trương Hiến Trung]] vào Xuyên, Tần Lương Ngọc cùng con trai Mã Tường Lân đúng lúc về Xuyên, trước sau giáp kích, đánh bại Trương ở Quỳ Châu (nay là [[Phụng Tiết]]), khiến ông ta phải bỏ chạy đến Hồ Quảng.
Năm Sùng Trinh thứ 13 ([[1640]]),
Năm Sùng Trinh thứ 14 (1641), đốc sư [[Dương Tự Xương]] dồn quân nông dân vào Xuyên, Tứ Xuyên tuần phủ Thiệu Tiệp Xuân chỉ có 2 vạn quân để giữ Trùng Khánh, hoàn toàn dựa vào lão tướng
Tần Lương Ngọc biết rằng kế sách này rất sai lầm, nhưng không dám trái lệnh. Khi ấy Miên Châu tri châu Lục Tốn Chi bãi quan về nhà, Thiệu Tiệp Xuân sai ông ta đến kiểm tra doanh lũy; Lục thấy quân đội của bà rất chỉnh tề, lấy làm lạ. Tần Lương Ngọc nhân đó đặt tiệc rượu, bày tỏ với Lục Tốn Chi:
Ngày 5 tháng 10, nghĩa quân Trương Hiến Trung trước tiên nhắm vào quân Minh trong Hoàng Nê oa, phát động tấn công ở Thổ Địa lĩnh <ref>Nay là Thảo Đường trấn, Phụng Tiết, Trùng Khánh</ref>, giết hơn ngàn người. Hôm sau, thủ hạ của Trương là Lý Định Quốc bắn chết
Kế hoạch vây diệt nghĩa quân của Dương Tự Xương hoàn toàn phá sản, 32 cửa ải trên một dải giao giới 2 tỉnh Xuyên, [[Hồ Bắc|Ngạc]] rơi vào tay nghĩa quân, đất Thục đại loạn. Tần Lương Ngọc vẫn không vì tổn thất nặng nề mà nản lòng, nói với Thiệu Tiệp Xuân:
==Tận trung với nhà Minh==
Năm [[Sùng Trinh]] thứ 17 ([[1644]]), [[Lý Tự Thành]] tiến vào Bắc Kinh, vua Sùng Trinh tự sát. Tin tức truyền đến, Tần Lương Ngọc cảm ơn sâu của Sùng Trinh, mặc tang phục, khóc đến ngất đi.
Lúc này nghĩa quân Trương Hiến Trung đã chiếm được một vùng đất rộng lớn, muốn quay lại đánh Tứ Xuyên. Tần Lương Ngọc trình lên Tứ Xuyên tuần phủ Trần Sĩ Kỳ
Sau đó [[Trương Hiến Trung]] chiếm lĩnh hầu hết đất Thục, kiến lập chính quyền Đại Tây, chỉ còn Tuân Nghĩa, Lê Châu và khu vực Thạch Trụ của Tần Lương Ngọc là chưa quy phục. Thổ ti các nơi đều sợ hãi tiếp nhận ấn tín của chính quyền [[Đại Tây]], Tần Lương Ngọc cũng nhận được ấn tín, bà ngồi trên mình ngựa, trước mặt mọi người, hủy nó đi, khẳng khái nói rằng:
Không lâu sau, tin tức từ Ngạc truyền đến, vợ chồng Mã Tường Lân ở Hồ Quảng chống quân nông dân Đại Thuận, tử trận tại [[Tương Dương]]. Trước khi chết, Tường Lân gửi thư cho mẹ tỏ ý quyết sống chết với Tương Dương, Tần Lương Ngọc rất hài lòng.
Dòng 92:
Anh trai, em trai, con trai và con dâu của bà đều hy sinh trên chiến trường. Tần Lương Ngọc thắng không kiêu, bại không nản; dốc tiền của, liều tính mạng mấy lần phò tá quốc nạn, đến chết vẫn không khuất phục, không đầu hàng nhà Thanh. Thật là phá gia tuẫn quốc, tận trung tận nghĩa, trong lịch sử có rất ít người sánh được với bà.
[[Quách Mạt Nhược]] tán tụng Tần Lương Ngọc: ''
[[Hồ Thích]] cũng viết:
[[Phùng Ngọc Tường]]:
==Tác phẩm liên quan==
===Kịch ===
* Tạp kịch: Đổng Dong,
* Kịch lịch sử: Hứa Hồng Bàn (nhà Thanh),
* [[Kinh kịch]]:
* [[Dự kịch]]:
* [[Xuyên kịch]]:
* Thoại kịch: vào thời Dân quốc, đạo diễn Dương Thôn Bân làm vở
===Từ khúc===
* [[Tiền Mai]] (nhà Thanh), "Kim lũ khúc - Đề Tần Lương Ngọc tượng"
* [[Cù Hiệt]] (nhà Thanh), "Kim lũ khúc - Vu dịch Thạch Trụ yết Tần phu nhân miếu"
* [[Vương Chi Xuân]] (nhà Thanh),
* [[Thẩm Mộng Đường]] (nhà Thanh),
* Liệt sĩ [[Thu Cấn]] (1875-1907),
===Điện ảnh===
* Năm 1931, Bặc Vạn Thương đạo diễn phim tình cảm
* Năm 1940, Bặc Vạn Thương đạo diễn phim tuyên truyền kháng Nhật
* Năm 1953, Cố Văn Tông đạo diễn phim lịch sử
* Năm 1973, Bặc Vạn Thương đạo diễn phim Dự kịch
===Phim truyền hình===
*
*
===Tiểu thuyết===
* [[Văn Công Trực]], tiểu thuyết võ hiệp
* Tác giả trên mạng [[Mộng Nhập Thần Cơ]], tiểu thuyết huyền ảo
*
* Thời Dân quốc có
* Tác giả người Thổ Gia là Tôn Nhân, tiểu thuyết lịch sử
* [[Lâm Tử Quân]] (Đài Bắc),
* Nữ nhà văn quân đội [[Tạ Băng Oánh]] (1906-2000), tiểu thuyết thông tục
* Ngô Sí Xương (nhà Thanh),
*
===Hội họa===
* Tranh liên hoàn
===Văn học yêu nước===
*
===Sách giáo khoa===
Dòng 146:
===Thơ===
* Dương Thiên Lí biên tập,
==Tham khảo==
Dòng 155:
==Đọc thêm==
* Mã Tuấn,
* Bộ nghiên cứu Bách khoa quân sự, viện Khoa học quân sự,
* Nhiều tác giả,
* Vương Tử Kim,
* Hoàng Phác Dân, nghiên cứu viên, tổ nghiên cứu chiến lược, viện Khoa học quân sự,
* Cốc Xuyên Đạo Hùng (Tanigawa, Michio) (Nhật Bản) biên tập và bình luận,
* Trần Cương Trứ (Đài Loan),
* Đại học Tứ Xuyên biên soạn,
==Liên kết ngoài==
|