Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Viện hàn lâm Pháp”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Liên kết ngoài: clean up using AWB
n clean up, General fixes using AWB
Dòng 56:
* số nhiều của những từ ghép;
* dấu mũ (^);
* động tính từ quá khứ của những tự động từ (''le participe passé des verbes pronominaux'') ;
* những dạng khác thường (''diverses anomalies'').
 
Năm điểm nêu trên không chỉ liên quan tới chính tả của từ ngữ hiện hữu, mà còn liên quan tới các từ ngữ sẽ được đặt ra, nhất là những từ khoa học và kỹ thuật.
 
Được “Hội"Hội đồng tối cao ngôn ngữ Pháp”Pháp" trình bày, những sửa đổi này đã được Viện Hàn lâm Pháp nhất trí tán thành, cũng như “Hội"Hội đồng tối cao ngôn ngữ Pháp”Pháp" của Québec (Canada) và “Hội"Hội đồng ngôn ngữ cộng đồng tiếng Pháp”Pháp" của [[Bỉ]].
 
Những sửa đổi này đã được đăng trong ''Công báo Pháp'' ngày 6.12.1990. Những sửa đổi này, giảm nhẹ nội dung và phạm vi của chúng, được tóm tắt như sau:
* dấu gạch nối: một số từ sẽ thay dấu gạch nối bằng việc viết liền nhau (ví dụ: porte-manteau thành portemanteau, porte-feuille thành portefeuille) ;
* số nhiều của những từ ghép: những từ ghép kiểu “pèse"pèse-lettre”lettre" sẽ chuyển sang số nhiều theo qui tắc của những từ đơn (ví dụ: des pèse-lettres) ;
* dấu mũ: sẽ không buộc phải dùng dấu mũ trên các chữ “I”"I"“u”"u", ngoại trừ trong những vĩ tố động từ và trong một số từ (ví dụ: qu’il fût, mûr) ;
* động tính từ quá khứ: sẽ không thay đổi trong trường hợp động từ ''laisser'' theo sau là một động từ lối vô định (ví dụ: elle s’est laissé mourir) ;
* Những dạng khác thường:
** những từ vay mượn: về nhấn trọng âm và số nhiều, các từ vay mượn sẽ theo qui tắc của những từ tiếng Pháp (ví dụ: un imprésario, des imprésarios) ;
** Những loại không ăn khớp: những cách viết sẽ được làm cho phù hợp với các qui tắc lối viết của Pháp (ví dụ: douçâtre), hoặc theo sự liên kết của một loại cụ thể (ví dụ: boursouffler như souffler, charriot như charrette).
 
Dòng 86:
== Lịch sử ==
[[File:La Coupole de l'Institut de France.JPG|nhỏ|Viện hàn lâm Pháp, nơi các viện sĩ nhóm họp trong các buổi họp công cộng.]]
Nguồn gốc Viện hàn lâm Pháp bắt đầu từ những cuộc họp không chính thức của nhóm nhà văn học thuộc «hội Conrart» từ năm 1629 tại số 135 phố Saint-Martin, nơi cư ngụ của [[Valentin Conrart]], cố vấn của vua [[Louis XIII]]. Các cuộc họp mặt văn học này đã gợi ý cho [[hồng y Richelieu]] lập ra dự án thành lập Viện hàn lâm Pháp, biến các cuộc họp này thành một hội đoàn văn học dưới quyền nhà vua, theo mẫu [[Accademia della Crusca]]<ref>Hội văn học gồm các nhà thông thái, nhà ngôn ngữ học, nhà ngữ văn học</ref> thành lập ở [[Firenze]] ([[Ý]]) năm [[1583]] và đã xuất bản tập ''Vocabolario'' (Ngữ vựng) năm [[1612]]<ref>Einar Ingvald Haugen, Anwar S. Dil “The"The Ecology of Language”Language" nhà xuất bản Stanford University Press 1972, đoạn 169</ref>. Conrart xin [[lettre patente]]<ref>chứng thư của nhà vua cho phép thành lập Viện</ref>, soạn thảo qui chế và điều lệ<ref>[http://www.academie-francaise.fr/role/statuts_AF.pdf Statuts et règlements]</ref> ngày 13.3.1634, được hồng y Richelieu chứng thực ngày 16.2.[[1635]], và được vua [[Louis XIII]] ký ngày 22.2.[[1635]] (ngày được coi là ngày khai sinh chính thức của Viện) và được đăng ký ở Nghị viện Paris ngày 16.7.[[1637]]. Viện gồm 22 viện sĩ, trong đó có 9 người trong nhóm ban đầu cộng thêm 13 viện sĩ mới. Valentin Conrart trở thành thư ký suốt đời từ năm 1634 tới 1675; hồng y Richelieu được phong là cha đẻ và người bảo trợ của Viện<ref>[[Paul Pellisson]] ''Histoire de l’Académie française depuis son établissement jusqu’en 1652'' (1653). Réédition: [[Éditions Slatkine|Slatkine Reprints]], Paris, 1989. [http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k737033.pdf Disponible sur Gallica Vol. 1] [http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k73704f.pdf Vol. 2]</ref>.
[[File:Ancienne porte de l'Académie française.jpg|nhỏ|trái|upright|Cửa cũ của Viện hàn lâm Pháp (trước năm 1780) với khẩu hiệu «À l'immortalité» (Để lưu danh muôn thuở).]]
 
Quyển ''Histoire de l'Académie françoise'' (tập một xuất bản năm [[1653]]) do [[Paul Pellisson]], một viện sĩ của Viện viết, tập thứ hai do [[Pierre-Joseph Thoulier d'Olivet]] viết thuật lại lịch sử của Viện, được xuất bản năm [[1729]]), soạn thảo từ các sổ sách của Viện Hàn lâm Pháp và dưới ảnh hưởng của các viện sĩ, là nguồn duy nhất về việc thành lập Viện hàn lâm này. Pellisson cho rằng Viện không có tính mục đích bác học nào như [[académie de Baïf]]<ref>hội âm nhạc và thơ do nhà thơ Baïf và nhạc sĩ Joachim Thibault de Courville thành lập</ref> thành lập năm 1570 và “Hội"Hội văn học Mersenne”Mersenne" hoặc tính mục đích chính trị như “Hội"Hội Dupuy”Dupuy"<ref>Hélène Merlin-Kajman, ''L'Excentricité académique'', éd. Les Belles-Lettres, 2001, 278p. ISBN 2251380523</ref>, tuy nhiên chuyện thuật lại của ông quên rằng ''câu lạc bộ Conrart'' qui tụ các nhà văn, các nhà quí tộc lớn và cũng nhằm mục đích trao đổi các thông tin để tạo cho nhóm này vị trí ưu tiên trong lãnh vực chính trị, xã hội ở thời đại này<ref>Nicolas Schapira, ''Un professionnel des lettres au XVIIe siècle: Valentin Conrart, une histoire sociale'', éd. Champ Vallon, 2003, p. 77</ref>. Hơn nữa, Viện hàn lâm cho ý kiến về các tác phẩm văn học (xem sự can thiệp của Viện vào [[Le Cid (Corneille)#La « querelle du Cid »|«cuộc tranh luận về tác phẩm Le Cid của Corneille»]]), hồng y Richelieu xem đây là một phương tiện để kiểm soát sinh hoạt văn hóa và trí thức Pháp. Trong ý muốn thu thập, hồng y Richelieu muốn ngôn ngữ Pháp là việc của những người đại diện các lãnh vực tri thức khác nhau (các giáo sĩ<ref>Lettrés de l'époque, ce sont souvent des cadets de famille à qui on ne peut donner l'héritage et la fonction militaire. Ils atteignent 24 ecclésiastiques sur les 40 membres en 1712</ref>, các quân nhân - người đầu tiên là [[Armand du Cambout|công tước Armand de Coislin]] năm 1652 - các nhà ngoại giao, rồi các nhà văn và triết gia - người đâu tiên là [[Montesquieu]] năm 1727 - dưới triều vua [[Louis XV]] người đã đe dọa bãi bỏ Viện hàn lâm khi viện muốn độc lập nhờ “Phong"Phong trào Ánh Sáng”Sáng") và quyết định là Viện hàn lâm mở ra cho 40 viện sĩ bình đẳng và độc lập, vì thế Viện không cần trợ cấp<ref name="Encausse">[[Hélène Carrère d'Encausse]], ''Des siècles d'immortalité - L'Académie française 1635-...'', Fayard, 2011, 401 p.</ref>.
 
Đặc tính chính thức của Viện «những người tài trí» được hình thành, ban đầu Viện họp ở bất cứ nhà viện sĩ nào, sau đó họp tại nhà quan chưởng ấn [[Pierre Séguier]] từ năm 1639, theo ý kiến của [[Colbert]] họp tại [[cung điện Louvre]] từ năm 1672, và cuối cùng họp ở [[collège des Quatre-Nations]] (trở thành [[Institut de France]] năm 1795) từ năm 1805 tới ngày nay<ref>[http://www.academie-francaise.fr/histoire/index.html L'histoire de l'Académie française]</ref>.
Dòng 98:
* không hề có Viện hàn lâm Pháp.
* nó đã bị bãi bỏ bởi một đạo luật của chế độ Cộng hòa.
*“Institut"Institut de France”France" đã tập hợp cùng lúc các Viện hàn lâm Khoa học, Viện hàn lâm Pháp và Viện hàn lâm văn chương rồi.
* nếu một hiệp hội mang cái tên nực cười (sic) Viện hàn lâm Pháp và theo điều lệ cũ của nó, thì ý định của chính phủ sẽ là bãi bỏ nó ngay lập tức.
 
Chủ nghĩa yêu nước nẩy sinh từ cuộc [[Chiến tranh thế giới lần thứ nhất]] dành ưu tiên cho việc tuyển chọn nhiều thống chế (người đầu tiên là [[thống chế Lyautey]] năm [[1912]]). Trong thời bị Đức chiếm đóng, Viện hàn lâm Pháp đã có những viện sĩ cộng tác với kẻ thù (như [[Charles Maurras]], [[Abel Bonnard]], [[Abel Hermant]] vv… và [[thống chế Pétain]]) từ năm 1929. Một truyền thuyết muốn rằng [[François Mauriac]] là linh hồn của cuộc kháng cự hàn lâm trong khi chính [[Georges Duhamel]] được bầu tạm thời vào chức thư ký vĩnh viễn năm 1942 là người đã tránh cho Viện hàn lâm khỏi bị lệ thuộc vào chế độ Vichy, đặc biệt là bằng việc đình chỉ các cuộc bầu cử (viện sĩ) như (từng xẩy ra) năm 1790<ref>Hélène Carrère d'Encausse, ''[http://www.academie-francaise.fr/immortels/discours_SPA/carrere_2010.html Le mystère de l'Académie: pouvoir intellectuel, pouvoir politique], séance publique annuelle de l'Institut, 2 décembre 2010</ref>. Khi nước Pháp được giải phóng, giới trí thức bị [[Comité national des écrivains]] (''Ủy ban nhà văn quốc gia'') thanh lọc và muốn bãi bỏ Viện hàn lâm này. Georges Duhamel đã bảo vệ thành công sự nghiệp của viện trước tướng [[Charles de Gaulle]]. Bộ luật về tội [[indignité nationale]]<ref>tạm dịch: “tội"tội bất xứng với quốc gia”gia", tội này nhẹ hơn “tội"tội phản quốc”quốc"</ref> dự trù là mọi người bị coi là mắc tội này và thuộc vào một cơ quan hiến định sẽ bị tự động khai trừ - đã không bao gồm những viện sĩ cộng tác với kẻ thù ở Viện hàn lâm này.
 
Viện hàn lâm từ đó lại tìm được sự độc lập hoàn toàn về chính trị và tài chính<ref>[http://legifrance.gouv.fr/jopdf/common/jo_pdf.jsp?numJO=0&dateJO=20060419&numTexte=00002&pageDebut=00002&pageFin= Loi de programme n° 2006-450 du 18 avril 2006]</ref> đối với ''Institut de France'' do [[loi de programme pour la recherche de 2006]] (luật về chương trình nghiên cứu năm 2006)<ref name="Encausse"/>.
Dòng 147:
Năm 1980, [[Marguerite Yourcenar]], nữ tiểu thuyết gia kiêm người viết tiểu luận, trở thành phụ nữ đầu tiên được bầu vào Viện hàn lâm Pháp. Sau đó, Viện đã có thêm các nữ viện sĩ [[Jacqueline de Romilly]] trong năm [[1988]], [[Hélène Carrère d'Encausse]] năm [[1990]], [[Florence Delay]] năm [[2000]], [[Assia Djebar]] năm [[2005]], [[Simone Veil]] năm [[2008]] và [[Danièle Sallenave]] năm[[2011]].
 
[[Áo viện sĩ]] (habit vert) mà các viện sĩ mặc – cùng với [[bicorne]] (mũ 2 sừng), áo choàng và thanh kiếm – trong các buổi họp long trọng ở Viện hàn lâm, đã được họa sĩ [[Jean-Baptiste Isabey]] vẽ mẫu dưới thời [[Chế độ tổng tài]]. Phẩm phục này dùng chung cho các viện sĩ của “Institut"Institut de France”France". Các «người bất tử» cũng như các giáo sĩ được miễn trừ, cũng như không phải đeo kiếm. Tuy nhiên các nữ viện sĩ Jacqueline de Romilly, Helène Carrère d'Encausse, Florence Delay và Simone Veil đã mặc áo viện sĩ trong lễ tiếp đón họ vào Viện. Nữ viện sĩ Helène Carrère d'Encausse là nữ viện sĩ đầu tiên đeo kiếm - một vũ khí do người thợ kim hoàn [[Goudji]] nước [[Gruzia]] làm. Các nữ viện sĩ Florence Delay, Assia Djebar và Simone Veil cũng đã chọn đeo kiếm. Nữ viện sĩ Jacqueline de Romilly đã nhận một ghim cài (broche) trượng trưng sau khi được bầu vào “Académie"Académie des inscriptions et Belles-Lettres”Lettres" năm 1975.
 
=== Số viện sĩ đầy đủ ===