Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Kleidion”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Đọc thêm: clean up, replaced: language = German → language=tiếng Đức using AWB
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 33:
 
Khi [[hoàng đế Đông La Mã]] [[Basileios II]] ngồi lên ngai vàng vào năm 976, ông đã coi việc thôn tính Bulgaria là tham vọng lớn nhất của mình. Mục tiêu của ông là các tỉnh miền tây Bulgaria dưới sự cai trị của Sa hoàng [[Samuel của Bulgaria]]. Chiến dịch đầu tiên của Basileios II với kết quả thất bại lớn, hoàng đế may mắn thoát chết khi quân Bulgaria tàn sát quân đội Đông La Mã ở [[Trận Cổng Traja|Cổng Trajan]] năm 986.<ref>''Angelov'' / ''Cholpanov'', Bulgarian Military History in the Middle Ages (10th–15th centuries), các trang 39–41, 43–44</ref>
Trong vòng mười lăm năm tiếp theo, khi Basileos đang bù đầu bận tâm đối phó với các cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của ông ở Anatolia và mối đe dọa từ [[nhà Fatimid|Fatimid]] ở phía Đông, Samuel đã giành lại hầu hết đất đai đã mất của Bungaria và tiến hành một loạt các chiến dịch vào lãnh thổ của đối phương. Tuy nhiên, cuộc xâm lược vào miền Nam [[Hy Lạp]], mà xa nhất là tới được [[Corinth]] đã dẫn đến một thất bại lớn trong [[trận Spercheios]] vào năm 996. Năm 1000, sau khi đảm bảo được yên ổn cho hậu phương, Basileios II đã phát động một loạt các cuộc phản công chống lại Bulgaria. Ông chiếm [[Moesia]], và tới năm 1003, lực lượng của ông tiến vào [[Vidin]]. Năm sau đó, Basileos đã giáng một thất bại nặng cho Samuel ở [[trận Skopie]]. Đến 1005, Basil đã lấy lại quyền kiểm soát tỉnh [[Thessalía|Thessalia]] và các vùng miền nam [[Macedonia (tỉnh)|Macedonia]]. Vài năm tiếp theo, Basileios II đưa quân từ Tiểu Á vào Châu Âu và tiến hành các chiến dịch tàn phá lãnh thổ Bulgaria, bao vây các pháo đài và cướp bóc các vùng nông thôn. Sa hoàng Bulgaria bị thua kém về mặt binh lực, không thể trực tiếp đánh nhau với Basileos, đã phải tung ra những cuộc tấn công nghi binh vào Macedonia và Hy Lạp. Mặc dù có một số thành công, những không đạt được bất kỳ kết quả lâu dài nào, cũng không thể buộc Basileos phải từ bỏ các chiến dịch của mình ở Bulgaria. Một cuộc tấn công lớn trong năm 1009 của quân Bulgaria không thành công tại [[trận Kreta]],<ref>''Gyuzelev'', Short History of Bulgaria, tr. 71</ref> và mặc dù không đạt được bất kỳ thành công quyết định nào, nhưng cuộc chiến tranh có phương thức tiêu hao của họ đã chiếm dần thành trì của Bulgaria và dần dần làm suy yếu lực lượng của Sa hoàng Samuel. Theo sử gia Đông La Mã [[Ioannes Skylitzes]] : ''"Hoàng đế [[Basileios II]] tiếp tục tấn công Bulgaria mỗi năm và tiêu diệt hoặc tàn phá tất cả mọi thứ trên đường đi.<ref>''Pirivatrich'', The State of Samuel, các trang 135–136</ref> Samuel không thể đối đầu với quân Đông La Mã trong chiến trường mở hoặc tham gia vào một trận chiến quyết định, bởi Bulgaria phải chịu quá nhiều thất bại và bắt đầu mất đi sức mạnh của mình ".''<ref>''Ioannes Scylitzes'', Historia, in "Selected sources" Vol. II, các trang 65–66</ref> Đỉnh điểm của cuộc chiến là vào năm 1014, khi Samuel hiệu triệu quân đồng minh và các chư hầu, nhằm quyết tâm ngăn chặn bước tiến của quân đội Đông La Mã trước khi họ tiến vào miền trung Bungaria.
 
== Sự chuẩn bị của hai đế quốc ==
Dòng 48:
Nỗ lực của Basileios II để áp đảo những người phòng thủ không thành công và quân đội của ông đã không thể đi qua thung lũng được bảo vệ bởi 15.000-20.000 quân Bulgaria.<ref>'' Ioannes Scylitzes'', Historia, p. 457</ref> Cho dù có gặp nhiều khó khăn nhưng hoàng đế Đông La Mã đã tuyên bố sẽ không từ bỏ cuộc tấn công của mình. Ông ra lệnh cho Nicephorus Xiphias đem một đội quân cơ động đi vòng qua núi Belasitsa và bao vây quân Bulgaria từ phía sau, trong khi Basileios tiếp tục chỉ huy các cuộc công thành phía trước mặt quân Bulgaria<ref>"Cedrin'', ibid., Trang 457-458</ref> Xiphias dẫn quân đội của ông đi dọc theo một con đường mòn dốc dẫn họ ra phía sau phòng tuyến của Bulgaria.<ref>"Cedrin'', ibid, trang. 458</ref> Vào ngày 29 tháng 7. Xiphias đã tấn công vào sau lưng các đội lính gác Bulgaria và vây họ lại trong thung lũng. Những người lính Bungaria bỏ chạy khỏi vị trí của mình phải đối mặt với quân của Xiphias trong khi đó, Basileios đã dễ dàng vượt qua chiến tuyến và phá hủy các bức tường, rồi thúc quân tràn vào<ref name="Ioannes Scylitzes p. 66"/><ref>"Zlatarski'', Lịch sử Bulgaria trong thời Trung cổ, Vol. I, Phần 2, trang 734-736</ref>
 
Trong cuộc tháo lui đầy hỗn loạn, hàng ngàn quân Bungaria đã bị giết và phần còn lại cố gắng trong tuyệt vọng chạy tháo thân về phía tây. Samuel và con trai của ông [[Gavril Radomir của Bungaria|Gabriel Radomir]] đã vội dẫn đầu một đội quân tiến về phía đông từ đại bản doanh của họ ở pháo đài [[Strumitsa]] để tiếp ứng cho tàn quân của họ, nhưng trong cuộc chiến đấu tuyệt vọng gần làng Mokrievo (ngày nay thuộc Cộng hòa Macedonia), họ đã bị quân Đông La Mã áp đảo một cách nhanh chóng <ref>''. Angelov'' /'' Cholpanov'', Bun-ga-ri Lịch sử quân sự trong thời Trung cổ (10-15 thế kỷ), p. 55</ref> Hàng nghìn binh sĩ Bungaria đã bị giết tại Mokrievo và nhiều hơn thế nữa đã bị bắt sống.<ref>[Http://kroraina.com/NI/izvori/GIBI_VI/GIBI_VI.djvu Hy Lạp nguồn trên lịch sử của Bulgaria (Bun-ga-ri) , Vol. VI], с. 284 (lấy ngày 2008/01/29)</ref> Sa Hoàng Samuel đã có thể tử trận hoặc bị bắt sống nếu không nhờ sự dũng cảm của con trai ông, người đã dìu cha mình trên con ngựa của mình và đưa ông đến được nơi an toàn ở [[Prilep]] <ref>"Ioannes Scylitzes", Historia, p. 458</ref> Từ Prilep, Samuel trở về [[Prespa]] trong khi Gabriel Radomir đi về phía Strumitsa để tiếp tục cuộc chiến <ref>"Zonaras'', ibid, trang. 121 trang</ref>
 
=== Giao tranh tiếp diễn ===
Dòng 99:
| authorlink = Konstantin Josef Jireček
| title = Geschichte der Bulgaren
| publisher = Nachdr. d. Ausg. Prag 1876, Hildesheim, New York : Olms 1977
| year = 1876
| language=tiếng Đức