Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Văn Thành (nhà Nguyễn)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Hình:Den_Tan_An_01.jpg|nhỏ|phải|Đền thờ đức Tiền Quân tại xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương]]
'''Nguyễn Văn Thành''' là một trong những vị khai quốc công thần của [[triều Nguyễn]] và là một trong những người có công lớn nhất trong việc đưa [[Nguyễn Phúc Ánh]] lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên của triều Nguyễn (vua [[Gia Long]]) của triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của [[Việt Nam]] (1802-1945).
 
==Cuộc đời và sự nghiệp==
===Thân thế===
Nguyễn Văn Thành sinh năm [[Đinh Sửu]] ([[1757]]), tiên tổ của ông người [[Quảng Điền]], phủ [[Thừa Thiên]], tằng tổ là Nguyễn Văn Toán dời vào [[Gia Định]]. Tổ là Nguyễn Văn Tính lại dời đến ở [[Khánh Hòa|Bình Hòa]]. Cha là Nguyễn Văn Hiền<ref>''Ở chân núi Doi, vùng Bảy Núi, [[An Giang]], Nguyễn Văn Hiển, cháu nội của Tiền Quân, cũng là Đại Đức hòa thượng Chí Thiền, một danh tăng đã sáng lập ra ngôi chùa Phi Lai. (xem thêm [[Nguyễn Văn Hiển]]).''</ref> lại dời vào Gia Định.
 
Sử cũ ghi: "Nguyễn Văn Thành trạng mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ".<ref>'' Đại Nam Liệt Truyện '', Chính Biên-sơ tập, quyển 21, trang 390''</ref>.
 
Năm [[1773]], ông cùng cha ra tận đất [[Phú Yên]] ngày nay để theo Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, chống [[Tây Sơn]].
Dòng 15:
 
===Sự nghiệp===
Năm [[Bính Ngọ]] ([[1786]]), ông cùng [[Lê Văn Quân]] giúp [[Xiêm]] đánh tan quân [[Miến Điện]] ở Sài Nặc (trên đất Xiêm), vua Xiêm thán phục trở về đem [[vàng]], [[lụa]] đến tạ, lại ngỏ ý một lần nữa giúp quân cho Nguyễn Ánh thu phục Gia Định. Nguyễn Ánh triệu chư tướng hội bàn, ông tâu rằng: "Vua Thiếu Khang chỉ một lữ còn dựng được cơ đồ nhà Hạ. Ta nuôi sức mạnh mà thừa chỗ sơ hở thì việc có thể làm được, lính Xiêm tàn ngược, không nên nhờ họ giúp, nếu nhờ binh lực họ mà thành công lại có sự lo sau, không bằng cứ yên tĩnh để chờ cơ hội là hơn". Vua cho phải, việc ấy bèn thôi.<ref>''[[Đại Nam thực lục chính biên]]'', Đệ Nhất Kỷ, quyển II, trang 225''</ref>.
 
Năm [[1787]], vào mùa thu, ''Đại Nam Liệt Truyện'' ghi: ''"...trận đánh ở Mỹ Tho, quân ta thất lợi. Hoặc có người bảo Thành về ẩn quê nhà, để đợi thời cơ. Thành nói rằng: "'Nghĩa cả vua tôi sống chết vẫn theo đi, sự thành bại nhờ trời, ta đoán trước sao được, và nhân bị quở mà đi, nhân thua mà trốn là phản phúc, tiền nhân ta không làm thế."''"<ref>''Đại Nam Liệt Truyện'', Chính Biên-Sơ Tập, quyển 21, trang 339''</ref>.
 
Năm [[1801]], ông lãnh ấn [[Khâm Sai Chưởng Tiền Quân]], [[Bình Tây Đại Tướng Quân]], tước [[Quận Công]].
 
Ông là người "biết chữ, hiểu nghĩa sách, biết đại thể, ở trong chư tướng, vua trọng Thành hơn cả, không cứ việc lớn việc nhỏ đều hỏi để quyết đoán. Mỗi khi ông đến chầu vua cho ngồi thong dong hỏi han, ông cũng đem hết sức tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch nhà nước, mưu kế việc binh, biết điều gì là nói hết, cũng nhiều bổ ích".<ref>''Đại Nam Liệt Truyện'', Chính Biên-Sơ Tập, quyển 21,trang 409-411''</ref>.
 
Về tài cầm binh của ông, theo nhiều nhà nghiên cứu thì ông là người "phân tích kĩ lưỡng, đâu là điểm mạnh, đâu là thế yếu, rồi mới quyết đoán, lúc tiến, khi lui nhằm giảm thiểu hao tổn tướng sĩ".<ref>''Thanh Long - Đường về cội nguồn''</ref>.
 
Năm [[1802]], vua [[Gia Long]] nghĩ [[Bắc Hà]] mới bình định, dân vật đổi mới, cố đô [[Thăng Long]] lại là trung tâm của Bắc thành với nghìn năm văn hiến đồng thời cũng là nơi đã từng chứng kiến bao cuộc thăng trầm của lịch sử dân tộc, nên được trọng thần để trấn thủ bèn phong cho ông làm [[Tổng trấn Bắc thành]], còn vua trở về kinh đô [[Phú Xuân]] (tức [[Huế]] ngày nay). Ban cho sắc ấn trong ngoài mười một trấn đều thuộc vào cả, các việc truất nhắc quan lại, xử quyết việc án, đều được tiện nghi làm việc, sau mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị.
 
[[Hình:con_dau_tien_quan.jpg|nhỏ|trái]]
:''Chi tiết {{xem bài [[thêm|Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong]]''}}
 
Vào [[tháng Chạp]] năm [[1802]], tại [[Thuận Hóa]], ông đứng chủ tế ở lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa [[Nguyễn Ánh]] với lực lượng Tây Sơn. Ông đã soạn bài ''"Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong''", lúc tế ông đọc bài văn này, lấy cái cảm tình của một ông võ tướng mà giải bày công trạng anh hùng của kẻ đã qua, thổ lộ tấm lòng thương tiếc của người còn lại, lời văn thống thiết, giọng văn hùng hồn, đây thật là một áng văn chương tuyệt bút của nền [[văn học Việt Nam]].
 
:''Chi tiết xem bài [[Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong]]''
 
Là một võ tướng, Nguyễn Văn Thành lại rất coi trọng việc học, cùng thời gian sửa sang lại Bắc Thành, ông đã cho tu bổ Văn Miếu-Quốc Tử Giám, dựng thêm Khuê Văn Các, đây là một kiến trúc có giá trị văn hóa và thẩm mỹ, công việc được hoàn thành vào mùa thu năm [[1805]]. Kiến trúc được đặt ở cửa Nghi Môn, hằng năm vào mùa Xuân và mùa Thu, chọn hai ngày Đinh lệnh cho quan đến tế. lấy bốn tháng giữa Xuân, Hạ, Thu, Đông tổ chức khảo thí học trò tại nơi này.
 
Năm [[1809]], gặp Bắc Thành dân đói, ông dâng sớ tâu: "Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. Sau khi các trấn bị thiên tai, nhân dân ngày càng đói lắm, xin bàn cách phát chẩn và cho vay để đỡ túng ngặt cho dân". Vua đều nghe theo.<ref>''[[Đại Nam thực lục chính biên]]'', Đệ Nhất Kỷ, quyển XL, trang 772''</ref>.
 
Năm [[1810]], ông được triệu về kinh, lãnh ấn Trung Quân, rồi được giao cử chức tổng tài trong việc soạn bộ [[Hoàng Việt Luật Lệ]] (thường được gọi là [[luật Gia Long]]). Bộ luật có hai phần, chia làm hai mươi hai quyển, có tất cả ba trăm chín mươi tám điều, ban hành năm [[1812]], đến năm [[1815]] được khắc in và định Quốc Sử. Hoàng Việt Luật Lệ là bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất lúc bấy giờ.
:<!-- ''Học giả [[người Pháp]] tên là Philastre khi đến [[Việt Nam]] vào giữa thế kỷ 19 là người am tường Hán học, lịch sử, phong tục, tín ngưỡng và các thể chế của nước Nam, đã nghiên cứu, phân tích, so sánh những điểm giống và khác nhau giữa bộ luật Gia Long với các bộ luật [[Trung Hoa]], nhất là với bộ luật [[nhà Thanh]].'' -->
 
Trước khi ban hành, Nguyễn Văn Thành có dâng sớ tâu lên vua Gia Long, trong sớ ông trình bày về việc: "...đặt lại quy tắc khoan hồng và thưởng phạt. Khi xem đến luật triều Thanh, đức Thánh thượng nhận thấy đó là bộ luật gồm đủ các sắc luật của các triều đại trước, nên ban sắc chỉ dạy các quan đem ra bàn bạc, xem xét cùng hạ thần ngỏ hầu chọn lấy những gì khả dĩ soạn thành bộ luật riêng để dùng trong nước... Sách đã dạy: Trừng phạt để về sau không còn phải trừng phạt nữa, đặt ra tội hình để về sau không còn phải dùng đến tội hình nữa. Điều đó há chẳng phải là điều mà Đức Thánh thượng hằng mong muốn hay sao?"{{fact}}
 
Hoàng Việt Luật Lệ xếp theo sáu loại: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công luật. Cũng giống như luật Hồng Đức, đây là một bộ luật phối hợp, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội thuộc nhiều lãnh vực khác nhau: từ luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân gia đình đến cả luật hành chính, luật tài chính, luật quân đội và luật quốc tế. Hoàng Việt Luật Lệ là luật thực định của một triều đại tồn tại hơn một thế kỉ và nó góp phần ổn định trật tự xã hội, củng cố các phong tục, tập quán cổ truyền tốt đẹp của dân tộc cùng với nhiều định chế rất tiến bộ<ref>Lịch Sử Việt Nam, tiến sĩ Huỳnh Công Bá, NXB Thuận Hoá, 2007</ref>.
Hàng 67 ⟶ 65:
Một số người vốn có tị hiềm với ông dựa vào hai câu cuối của bài thơ mà lập luận, suy đoán, thêu dệt thành ý phản loạn, truất ngôi vua.
 
Mọi việc kêu oan của ông đều không được Gia Long minh xét. Ông nói với Thống chế Thị Trung lúc bấy giờ là Hoàng Công Lý : "Án đã xong rồi vua bắt bề tôi chết, bề tôi không chết, không phải là trung"<ref>''Đại Nam Liệt Truyện'', Chính Biên-Sơ Tập, quyển 21, trang 418-419'' </ref>. Ông buộc phải uống thuốc độc tự tử trong ngục vào năm [[Đinh Sửu]] ([[1817]]), hưởng thọ sáu mươi tuổi. Con trai ông là Nguyễn Văn Thuyên thì bị xử án chém.
 
==Nhận định==
Hàng 73 ⟶ 71:
 
Sách ''Đại Nam Liệt Truyên'' còn ghi:
:''"...Thành có văn võ tài lược, lâm trận dụng binh mưu lược rồi mới đánh cho nên ít khi thua, lúc đầu trung hưng, công ấy tốt lắm. Đến khi Bắc hà đã định, một mình đương công việc Tổng trấn không động đến lời nói nét mặt mà trộm giặc đều yên, bày mưu chốn miếu đường, bày tâu sự nghị đều được thi hành, có thể gọi là người có mưu giỏi trị nước..."''{{fact}}
 
Năm 1847, [[Tự Đức]] lên ngôi, truy xét công trạng, lại chiếu giải oan án và phong chức tước cho con cháu Nguyễn Văn Thành.
Hàng 96 ⟶ 94:
Năm [[1805]], ông cho xây dựng Khuê Văn Các tại [[Văn Miếu-Quốc Tử Giám]] [[Hà Nội]].
Đây là một vài hình ảnh của Khuê Văn Các tại Văn Miếu - Hà Nội. Về nguồn gốc Khuê Văn Các trong bức ảnh thứ nhất đã ghi rõ như sau:
::''"Tháng 6, năm Ất Mùi niên hiệu Gia Long thứ 4 (1805) Quận công Nguyễn Văn Thành dựng Khuê Văn Các bên cạnh giếng vuông, trước sân Văn Miếu.''
::''Trần Bá Lãm có thơ ca ngợi:<ref>Trần Bá Lãm(1757-1815): tác giả La Thành Cổ Tích Vịnh.</ref>''
::''Mấy lớp cung tường sừng sững cổ kim''
::''Bốn mùa hoa cỏ sum xuê tươi tốt''
::''Thánh triều gây dựng qui mô lớn''
::''Lâu dài mãi với núi Nùng cao, sông Nhị sâu''<ref>Theo Hoàng Việt Địa Dư Chí của Phan Huy Chú, quyển 1, tờ 18, núi Nùng ở giữa thành, triều Lý đóng đô lấy núi Nùng làm đài Chính Điện, đến đời Lê làm điện Kính Thiên... vết tích núi Nùng hiện nay vẫn còn, nơi nền nhà điện Kính Thiên xưa đó là những con rồng đá ở thềm chín bậc. Từ trước, núi Nùng được xem là biểu tượng của Thăng Long và thường được nhắc cùng với sông Nhị để chỉ kinh đô Đại Việt.</ref>"''
::''Trích: Quốc sử di biên''
 
Hàng 110 ⟶ 108:
 
==Chú thích==
{{reflist}}
<references />
 
==Xem thêm==
*[[Văn tế tướng sĩ trận vong]]
 
==Tài liệu thamTham khảo==
*[[Đại Nam liệt truyện]] - Quốc Sử Quán Triều Nguyễn - Viện sử học Việt Nam - NXB Thuận Hóa, 2006.
*[[Đại Nam thực lục chính biên|Đại Nam thực lục]] - Quốc Sử Quán triều Nguyễn - Viện sử học Việt Nam - NXB Giáo Dục, 2004.
*[[Việt Nam sử lược]] - [[Trần Trọng Kim]] - NXB Trung Tâm Học Liệu, 1971.
*[[Quốc Văn trích diễm]] - [[Dương Quảng Hàm]] - NXB Bốn Phương, 1950.
*[[Lược khảo Hoàng Việt luật lệ]] - Nguyễn Q.Thắng - NXB Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, 2002.
*Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử - Nguyễn Q.Thắng, Nguyễn Bá Thế - NXB Tổng Hợp TP.HCM, 2005.
*Sổ tay văn hóa Việt Nam - Đặng Đức Siêu - NXB Lao Động, 2005.
*Ý kiến của nhà văn [[Sơn Nam]].
*Tài liệu Đình Tân An - Phan Thanh Đào - Bảo tàng Bình Dương.
*[[Lần Theo Dấu Xưa]] - Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo Dục, 2004
*Án Xưa Tích Cũ - Lê Đức Hạnh, Hoàng Khôi, Lê Huy Trâm, Lê Văn Đình - NXB Tổng Hợp Đồng Nai.
*[[Lược Khảo Lịch Sử Văn Học Việt Nam]] - Bùi Đức Tịnh.
*Hà Nội Xưa và Nay, Vũ Tuân Sán, NXB Hội Nhà Văn, 2007.
*Lịch sử Gia Định Sài Gòn trước 1802, Cao Tự Thanh, NXB Tổng Hợp TP.HCM, 2007
*Ấn Chương Việt Nam Thời Nguyễn, Nguyễn Công Việt, Viện khoa học xã hội Việt Nam - Viện nghiên cứu Hán Nôm, NXB Khoa Học Xã Hội, 2005.
 
{{Các chưởng quản quân đội của Nguyễn Ánh}}
 
[[Thể loại:Quan nhà Nguyễn]]
{{Ngày tháng sống|sinh=1757|mất=1817}}