Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Oroqen”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Liên kết ngoài: add category using AWB
n →‎Tôn giáo: Alphama Tool, replaced: là là → là
Dòng 29:
Cho đến đầu những năm 1950, tôn giáo chính của người Oroqen là [[shaman giáo]]. Vào mùa hè năm 1952, các cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã buộc các thủ lĩnh của người Oroqen từ bỏ những phong tục "mê tín dị đoan" và cấm đoán các hoạt động tôn giáo. Pháp sư cuối cùng của người Oroqen, Chuonnasuan (Meng Jin Fu), đã qua đời vào năm 73 tuổi vào ngày 9 tháng 10 năm 2000.<ref>{{chú thích tạp chí |last=Noll |first=Richard |authorlink=Richard Noll |coauthors=Shi, Kun |title=Chuonnasuan (Meng Jin Fu). The Last Shaman of the Oroqen of Northeast China |journal=Journal of Korean Religions |year=2004 |issue=6 |pages=135–162 |url=http://www.desales.edu/assets/desales/SocScience/Oroqen_shaman_FSSForumAug07.pdf |format=pdf}} It describes the life of Chuonnasuan, the last shaman of the Oroqen of Northeast China.</ref>
 
Việc thờ cúng tổ tiên vẫn được thi hành đều đặn cho đến ngày nay, dân tộc này tin vào thuyết vạn vật hữu linh ([[thuyết vật linh]]). Theo truyền thống, người Oroqen có một sự tôn kính đặc biệt đối với động vật, đặc biệt là gấu và hổ, mà họ coi như là anh em ruột của họ. Con hổ này được biết đến với họ như wutaqi có nghĩa là "ông già", trong khi gấu được gọi là ''amaha'' có nghĩa là "bác".
 
== Chú thích ==