Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Boeing B-17 Flying Fortress”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n using AWB |
sửa format |
||
Dòng 6:
|hãng sản xuất=[[Boeing]]
|hãng thiết kế=[[Edward Curtis Wells|Edward C. Wells]]<br />E. Gifford Emery
|chuyến bay đầu tiên=[[28 tháng 7]]-[[Hàng không năm 1935|1935]]<ref name="first flight">{{chú thích web |url= http://www.boeing.com/history/chronology/chron04.html |title= The Boeing Logbook: 1933 – 1938|
|được giới thiệu=[[tháng tư|tháng 4]]-[[Hàng không năm 1938|1938]]
|được nghỉ hưu=[[Hàng không năm 1968|1968]] ([[Không quân Brazil]])
Dòng 20:
'''[[Boeing]] B-17 Flying Fortress''' (''Pháo đài bay B-17'') là kiểu [[máy bay ném bom hạng nặng]] 4 động cơ được phát triển cho [[Không lực Lục quân Hoa Kỳ]] (USAAC) và được đưa vào sử dụng vào cuối những năm [[thập niên 1930|1930]]. Cạnh tranh cùng với [[Douglas Aircraft Company|Douglas]] và [[Glenn L. Martin Company|Martin]] trong một hợp đồng chế tạo 200 máy bay ném bom, thiết kế của hãng Boeing vượt trội hơn cả hai đối thủ và vượt xa những yêu cầu của Không lực. Cho dù Boeing bị mất hợp đồng do máy bay nguyên mẫu bị rơi, Không lực Mỹ vẫn bị ấn tượng bởi thiết kế của Boeing và đặt hàng 13 chiếc B-17. B-17 Flying Fortress tiếp tục được đưa vào sản xuất và được xem là chiếc máy bay lớn đầu tiên sản xuất hàng loạt, lần lượt trải qua nhiều phiên bản cải tiến từ B-17A đến B-17G.
B-17 được Không lực Mỹ sử dụng chủ yếu trong các chiến dịch [[ném bom chiến lược]] chính xác ban ngày vào các mục tiêu công nghiệp, quân sự và dân sự của [[Đức Quốc Xã|Đức]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]]. Các đơn vị Mỹ là [[Không Lực 8]] đóng tại [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]] và [[Không Lực 15]] đóng tại [[Ý]] góp phần bổ sung cho nhiệm vụ ném bom khu vực ban đêm của [[Bộ chỉ huy Không quân Ném bom]] thuộc [[Không quân Hoàng gia Anh]] trong [[chiến dịch Pointblank]], giúp đạt được ưu thế trên không trên các thành phố, nhà máy và chiến trường Tây Âu chuẩn bị cho [[Trận Normandie|Trận chiến Normandy]].<ref name="Carey Pointblank">{{chú thích tạp chí | last =Carey | first =Brian Todd | title =Operation Pointblank: Evolution of Allied Air Doctrine During World War II | journal =World War II | volume = | issue = tháng 11 | pages = trang 4 | publisher =|date =1998|url =http://www.historynet.com/air_sea/airborne_operations/3026416.html?page=4&c=y |
Ngay từ trước chiến tranh, Không lực Mỹ (sau này là Không quân Hoa Kỳ) đã xem máy bay này là vũ khí chiến lược quan trọng có uy lực lớn, bay cao, ném bom tầm xa, có sức phá hủy lớn trong khi có khả năng tự phòng thủ, và nhất là khả năng quay về sân bay nhà cho dù hư hại nặng trong chiến đấu. Độ bền của nó, nhất là đáp bằng bụng và đáp trên mặt nước, nhanh chóng lan truyền như một huyền thoại.<ref name="Manual">{{chú thích sách |title= B-17 Pilot Training Manual |origdate= |url= http://www.stelzriede.com/ms/html/mshwpmn1.htm |accessdate= 16 tháng 1
| url = http://www.b17fortress.de/english/index.php | title = B-17 Flying Fortress |
|first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_1.html |title= Boeing Model 299|
== Thiết kế và phát triển ==
[[Tập tin:Boeing XB-17 (Model 299).jpg|phải|nhỏ|Kiểu 299 số hiệu ''NX13372'']]
[[Tập tin:Boeing XB-17 (Model 299) nose turret with gun.jpg|phải|nhỏ|Tháp súng mũi và súng máy trang bị cho chiếc nguyên mẫu.]]
Ngày [[8 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1934|1934]], [[Không lực Lục quân Hoa Kỳ]] (USAAC) mở thầu một kiểu máy bay ném bom nhiều động cơ nhằm thay thế cho chiếc [[Martin B-10]]. Các yêu cầu là nó phải mang được "tải trọng bom hữu ích" ở độ cao 3 km (10.000 ft) trong 10 giờ với tốc độ tối đa ít nhất là 322 km/h (200 dặm mỗi giờ).<ref name="Northstar">{{chú thích web |url= http://northstargallery.com/Aircraft/B17/about.htm |title= Aviation Photography:B-17 Flying Fortress |
|first =Greg |url= http://www.vectorsite.net/avb17_1.html#m2 |title= Fortress In Development: Model 299 |year =2005 |
Chiếc nguyên mẫu B-17, đặt tên '''Kiểu 299''', được thiết kế bởi một nhóm kỹ sư dưới sự lãnh đạo bởi E. Gifford Emery và [[Edward Curtis Wells]], được chế tạo bằng kinh phí riêng của [[Boeing]].<ref name="Goebel.299Dev"/> Nó kết hợp những tính năng của kiểu ném bom thử nghiệm [[Boeing XB-15]] và máy bay vận tải [[Boeing 247]].<ref name="Northstar"/> B-17 mang được đến 2.200 kg (4.800 lb) bom trên 2 giá trong khoang bom phía sau khoang lái và được trang bị năm súng máy 7,62 mm (0,30 inch), và gắn bốn động cơ [[Pratt & Whitney R-1690]] [[động cơ bố trí hình tròn|bố trí hình tròn]], mỗi chiếc có công suất 750 mã lực (600 kW) ở độ cao 2.130 m (7.000 ft).<ref name="Goebel.299Dev"/>
Dòng 36:
Chuyến bay đầu tiên của Kiểu 299 diễn ra vào ngày 28 tháng 7 năm [[Hàng không năm 1935|1935]], do phi công thử nghiệm trưởng của Boeing là Leslie Tower điều khiển.<ref name="first flight"/><ref name="Sal.p46">Salecker 2001, trang 46.</ref> Richard Williams, một thông tín viên của tờ [[The Seattle Times|''Seattle Times'']], đã đặt ra cái tên "Flying Fortress" (Pháo đài bay) khi thấy chiếc Kiểu 299 lăn bánh ra khỏi xưởng, phô diễn nhiều khẩu súng máy tua tủa để tự vệ.<ref name="Yenne.p12">Yenne 2006, trang 12.</ref> Boeing nhanh chóng nhận ra giá trị tiếp thị và đã đăng ký thương hiệu để sử dụng cái tên này. Vào ngày [[20 tháng 8]], chiếc nguyên mẫu bay từ [[Seattle]] đến Wright Field trong chín giờ và ba phút, với tốc độ trung bình 378 km/h (235 dặm mỗi giờ), nhanh hơn nhiều so với những chiếc cạnh tranh.<ref name="Goebel.299Dev"/>
Trong cuộc bay loại, thiết kế của chiếc Boeing 4-động cơ trình diễn tính năng bay hơn hẳn những kiểu 2-động cơ DB-1 và Kiểu 146, và [[Trung tướng]] [[Frank Maxwell Andrews]] thuộc Bộ chỉ huy Không lực tin rằng khả năng bay xa của loại máy bay lớn 4 động cơ sẽ hiệu quả hơn máy bay 2 động cơ có tầm bay ngắn hơn. Quan điểm của ông cũng được sự đồng tình của các quan chức mua sắm Không lực, và cho dù cuộc cạnh tranh chưa kết thúc họ đã đề nghị đặt mua 65 chiếc B-17.<ref name="Tate 165">{{chú thích sách |last= Tate |first= Dr. James P. |title= The Army and Its Air Corps: Army Policy toward Aviation 1919–1941 |origdate= |origyear= |origmonth= |url= http://books.google.ca/books?vid=ISBN1-42891-257-6&id=pZyLTfJFaEgC&dq=The+Army+and+Its+Air+Corps+Army+Policy+toward+Aviation |accessdate= 16 tháng 1
[[Tập tin:Boeing Model 299 crash.jpg|nhỏ|trái|Chiếc nguyên mẫu Kiểu 299 bị rơi]]
Công việc phát triển vẫn được tiếp tục trên chiếc Boeing Kiểu 299, nhưng vào ngày [[30 tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1935|1935]], phi công thử nghiệm của Không lực là Thiếu tá [[Ployer Peter Hill]] cùng Leslie Tower của Boeing lái chiếc 299 trên chuyến bay đánh giá lần thứ hai. Đội bay quên nhả các "khóa gió" của máy bay, một thiết bị giữ những mặt phẳng điều khiển máy bay cố định tại chỗ khi máy bay đậu trên mặt đất; và khi cất cánh nó bị mất kiểm soát và rơi, giết chết Hill và Tower trong khi các quan sát viên khác bị thương.<ref name="Museum">{{chú thích web |url= http://www.nationalmuseum.af.mil/factsheets/factsheet.asp?id=2478 |title= Model 299 Crash, 15 tháng 11 năm 1935 |
[[Tập tin:Boeing Y1B-17 in flight.jpg|phải|nhỏ|Chiếc Boeing Y1B-17 thử nghiệm đang bay.]]
Bất kể những việc ấy, Không lực Mỹ vẫn bị ấn tượng bởi tính năng bay của chiếc nguyên mẫu, nên vào ngày [[17 tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1936|1936]], họ đã thông qua một kẽ hở pháp lý<ref name="Meilinger">{{chú thích tạp chí | last =Meilinger | first =Phillip S. | title =When the Fortress Went Down | journal =Air Force Magazine | volume =87 | issue =9 | pages = | publisher = Air Force Association |date= tháng 10 năm 2004 | url =http://www.afa.org/magazine/Oct2004/1004fort.asp |
[[Tập tin:B-17s flyby Rex.jpg|nhỏ|trái|Chiếc B-17A đang bay ngang qua tàu hành khách ''Rex'' của Ý]]
Từ ngày [[1 tháng 3]] đến ngày [[4 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1937|1937]], 12 trong tổng số 13 chiếc YB-17 được giao cho Liên đội Ném bom 2 tại căn cứ [[Langley Field]], [[Virginia]], và được sử dụng trong việc phát triển các kỹ thuật ném bom hạng nặng cũng như tìm và sửa lỗi.<ref name="Northstar"/> Có một đề nghị về việc sử dụng một [[danh sách kiểm tra]] nhằm tránh những tai nạn như kiểu chiếc 299.<ref name="Meilinger"/><ref name="Checks2">{{chú thích web |url= http://www.atctraining.faa.gov/afss/history/checklst.htm |title= How the Pilot's Checklist Came About|last = Schamel|first = John|quote = Ý tưởng về danh sách kiểm tra của phi công được lan truyền và áp dụng cho các đội bay và các kiểu máy bay khác của Không Lực, và sau này cho cả ngành hàng không. |
Chiếc YB-17 thứ 14 (số hiệu ''37-369''), ban đầu được chế tạo để thử nghiệm trên mặt đất về độ bền của khung máy bay, được nâng cấp và trang bị bộ turbo tăng áp vận hành bằng khí xả. Được lên kế hoạch để bay vào năm [[Hàng không năm 1937|1937]], nó gặp phải nhiều vấn đề về bộ turbo tăng áp nên chuyến bay đầu tiên bị hoãn đến [[29 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1938|1938]].<ref name="Donald">{{cite encyclopedia | editor = David Donald | encyclopedia =The Encyclopedia of World Aircraft | title = Boeing Model 299 (B-17 Flying Fortress) || edition = 1 | date = 1997|publisher = Prospero Books|location = Etobicoke, Ontario, Canada|isbn =1-85605-375-X|pages = trang 155}}</ref> Việc cải tiến làm Boeing tiêu tốn mất 100.000 đô la và mãi cho đến mùa Xuân năm [[Hàng không năm 1939|1939]] mới hoàn thành, nhưng mang lại kết quả là gia tăng trần bay và tốc độ tối đa.<ref name="Goebel.YB-17A">{{chú thích web |last = Goebel |first =Greg |url= http://www.vectorsite.net/avb17_1.html#m3 |title= Y1B-17/Y1B-17A |year =2005 |
|first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_3.html |title= Boeing Y1B-17A/B-17A|
Cuối năm [[Hàng không năm 1937|1937]], Không Lực đặt mua thêm mười chiếc ký hiệu '''B-17B''', và không lâu sau, 29 chiếc nữa, tất cả chỉ được giao xong vào giữa năm [[Hàng không năm 1939|1939]].<ref name="Goebel.YB-17A"/> Được cải tiến với cánh tà và cánh đuôi lớn hơn, mũi máy bay làm bằng kính [[kính Acrylic|Plexiglas]], những chiếc B-17B được giao thành năm lô nhỏ trong thời gian từ [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1939|1939]] đến [[tháng ba|tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1940|1940]]. Nó được trang bị cho 2 phi đội ném bom, mỗi phi đội ở một bờ biển của lục địa Mỹ.<ref name="Goebel B-17B-D">{{chú thích web |last = Goebel |first =Greg |url= http://www.vectorsite.net/avb17_1.html#m4 |title= B-17B/B-17C/B-17D |year =2005 |
[[Tập tin:B-17B Bombers at March Field, California prior to 7 December 1941.jpg|phải|nhỏ|Những chiếc B-17B tại [[March Field]], California, trước cuộc tấn công vào [[Trân Châu Cảng]].]]
Những vấn đề chính về cấu trúc và điều khiển bay của chiếc B-17 không được giải quyết cho đến khi có một thiết kế mới (sau một tai nạn tại California bộc lộ ra vấn đề), đưa đến việc ra đời phiên bản B-17 Flying Fortress Kiểu E (còn được gọi là kiểu đuôi mập-"fat-tail", với chỗ được bố trí cho súng máy phía đuôi), có sống lưng và hệ thống phản hồi thứ cấp hoạt động của động cơ. Sống lưng kéo dài đến đuôi giúp gia tăng tính năng bay và độ vững chắc của cấu trúc. Nó được đánh giá là dễ điều khiển so với những chiếc máy bay ném bom cùng thời [[Consolidated B-24 Liberator|B-24]] và [[Avro Lancaster]].
Ngay trước cuộc tấn công [[Trận Trân Châu Cảng|Trân Châu Cảng]], chỉ có gần 200 chiếc B-17 đang phục vụ trong Lục quân.<ref name="Meilinger"/> Có tổng cộng 155 chiếc B-17 thuộc mọi phiên bản được giao từ ngày [[11 tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1937|1937]] đến ngày [[30 tháng 11]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]], nhưng việc sản xuất được nhanh chóng tăng tốc, và B-17 trở nên kiểu máy bay lớn đầu tiên được sản xuất thực sự hằng loạt.<ref name="AFM">{{chú thích tạp chí | last = Eylanbekov | first = Zaur |month = tháng 2 | year = 2006 | title = Airpower Classics:B-17 Flying Fortress | url = http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/Magazine%20Documents/2006/February%202006/0206classics.pdf | work = | journal = Air Force Magazine
== Lịch sử hoạt động ==
Dòng 62:
B-17 bắt đầu hoạt động trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]] với [[Không quân Hoàng gia Anh]] từ năm [[Hàng không năm 1941|1941]], các đơn vị [[Không lực 8]] và [[Không lực 15]] của Không lực Lục quân Hoa Kỳ từ năm [[Hàng không năm 1942|1942]], và được dùng chủ yếu trong các chiến dịch [[ném bom chiến lược]] chính xác ban ngày các mục tiêu công nghiệp của [[Đức]]. [[Chiến dịch Pointblank]] (Điểm trắng) là những trận tấn công có định hướng chuẩn bị cho tấn công trên bộ.<ref name="Carey Pointblank"/>
[[Tập tin:B-17 Flying Fortress.jpg|nhỏ|trái|Những chiếc B-17 Flying Fortress tại Tây Âu trong Thế Chiến II]]
Trong Thế Chiến II, B-17 được trang bị cho 32 liên đội đóng ở nước ngoài, số lượng cao nhất là vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]] với 4.574 chiếc thuộc Không lực Mỹ khắp thế giới,<ref name="Baugher Squads">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_squad.html |title= B-17 Squadron Assignments |
=== Không quân Hoàng gia Anh ===
[[Tập tin:B-17C with RAF colors.jpg|phải|nhỏ|Fortress B.I số hiệu ''AN529'' của Không quân Hoàng gia Anh, nguyên là chiếc B-17C Không lực Mỹ số hiệu ''40-2065''. Ngày 8 tháng 11 năm 1941 tại Bắc Phi.]]
[[Không quân Hoàng gia Anh]] (RAF) tham gia Thế Chiến II mà không có được máy bay ném bom hạng nặng của riêng họ mãi đến tận năm [[Hàng không năm 1941|1941]], khi [[Short Stirling]] và [[Handley Page Halifax]] mới trở thành những máy bay ném bom chủ lực. Đầu năm [[Hàng không năm 1940|1940]], Không quân Hoàng gia đạt được thỏa thuận với Không Lực Mỹ để được cung cấp 20 chiếc B-17C, được đặt tên lại là '''Fortress I'''. Chiến dịch đầu tiên của chúng là ném bom xuống thành phố [[Wilhelmshaven]], Hạ Saxony, ngày [[8 tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]].<ref name="Goebel B-17B-D"/><ref name="Yenne.p23">{{chú thích sách | last =Yenne | first =Bill | title =B-17 at War | publisher =Zenith Imprint | date =2006 | location =St Paul, Minnesota | pages =p. 23| url = | doi = | isbn =0-7603-2522-7 |}}</ref><ref name="Chant">{{chú thích sách | last =Chant | first =Christopher | title =Warplanes of the 20th Century | publisher =Tiger Books International | date =1996|location =London|pages =p. 61–62| url =|isbn =1-85501-807-1|accessdate = }}</ref> Vào lúc đó, Không Lực Mỹ quy ước việc ném bom tầm cao là ở độ cao 6 km (20.000 ft), nhưng để tránh bị các [[máy bay tiêm kích]] đánh chặn, Không quân Hoàng gia đã ném bom vào các căn cứ hải quân ở độ cao 9 km (30.000 ft).<ref name="Fortress I In Combat">{{chú thích web |last = Goebel |first =Greg |url= http://www.vectorsite.net/avb17_1.html#m5 |title= RAF Fortress I In Combat |year =2005 |
Đến [[tháng chín|tháng 9]], sau khi Không quân Hoàng gia bị mất tám chiếc B-17C trong chiến đấu hay do tai nạn, [[Bộ Chỉ huy Ném bom Không quân Hoàng gia|Bộ Chỉ huy Ném bom]] đã từ bỏ việc ném bom chính xác ban ngày do khả năng kém cỏi của những chiếc Fortress I. Những chiếc còn lại được chuyển cho nhiều nhiệm vụ khác nhau bao gồm phòng thủ duyên hải.<ref name="Fortress I for RAF"/> Kinh nghiệm trên đã chứng minh cho cả Không quân Hoàng gia lẫn Không Lực Mỹ tình trạng không sẵn sàng chiến đấu của chiếc B-17C, và nó cần được cải tiến về phòng thủ, tăng tải trọng bom và phương pháp ném bom chính xác hơn vào trong các phiên bản tiếp theo. Hơn nữa, ngay cả với các cải tiến này, chỉ còn có Không Lực Mỹ, chứ không phải Không quân Hoàng gia, còn giữ ý định sử dụng B-17 trong vai trò ném bom ban ngày.<ref name="Fortress I In Combat"/>
Bộ chỉ huy Ném bom Không quân Hoàng gia đã chuyển giao những chiếc Fortress I còn lại sang [[Bộ Chỉ huy Duyên hải Không quân Hoàng gia|Bộ Chỉ huy Duyên hải]] để sử dụng trong vai trò máy bay tuần tra tầm cực xa. Chúng được tăng cường vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]] bởi 19 chiếc '''Fortress Mk II''' (B-17F) và 45 chiếc '''Fortress Mk IIA''' (B-17E).<ref name="Gustin">{{chú thích web |last = Gustin | first =Emmanuel|url=http://uboat.net/allies/aircraft/b17.htm|title=Boeing B-17|
Phi đội 223 Không quân Hoàng gia Anh, một đơn vị của Liên đội 100, đã sử dụng một số ít máy bay Fortress nhằm hỗ trợ cuộc tấn công ném bom làm nhiễu mạng lưới radar của Đức.<ref name="RAF">{{chú thích web |url=http://www.raf.mod.uk/bombercommand/h223.html |work=RAF History - Bomber Command 60th Anniversary |title=No 233 Squadron |year=2004}}</ref>
Dòng 76:
=== Không lực Mỹ ===
[[Tập tin:Group of Women Airforce Service Pilots and B-17 Flying Fortress.jpg|nhỏ|phải|Bốn nữ phi công rời khỏi chiếc "Pistol Packin' Mama" của họ sau buổi tập của đơn vị [[Nữ Phi công Phục vụ Không lực (WASP)]] tại căn cứ Lockbourne, Ohio; được huấn luyện để vận chuyển máy bay B-17 Flying Fortress đến chiến trường. Từ trái sang phải: Frances Green, Marget (Peg) Kirchner, Ann Waldner và Blanche Osborn.]]
Không lực Mỹ (tên đầy đủ là [[Không lực Lục quân Hoa Kỳ]]/USAAF năm 1941) sử dụng B-17 và các kiểu máy bay ném bom trong các phi vụ ném bom chính xác ban ngày ở tầm cao bằng cách sử dụng một thiết bị mà cho đến lúc ấy còn đang được giữ bí mật, là [[bộ ngắm ném bom Norden]], một thiết bị quang học với con quay hồi chuyển cơ-điện điều khiển bằng máy tính. Trong các phi vụ ném bom ban ngày, thiết bị có khả năng xác định, thông qua các tham số do sĩ quan ném bom đưa vào, điểm thả bom có khả năng trúng đích. Trong lúc ném bom, quyền kiểm soát lái máy bay được chuyển cho sĩ quan ném bom, duy trì một độ cao ngang bằng vào những phút cuối.<ref name="Baugher B-17B">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_4.html |title= Boeing B-17B Fortress |
Không lực Mỹ khởi sự gầy dựng lực lượng tại Châu Âu với máy bay B-17E không lâu sau khi Mỹ tham gia Thế Chiến II. Các đơn vị đầu tiên của [[Không lực 8]] đến [[High Wycombe]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] ngày [[12 tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]], thành lập nên Liên đội Ném bom 97.<ref name="Northstar"/> Ngày [[17 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]], 18 chiếc B-17E của Liên đội 97, bao gồm chiếc ''Yankee Doodle'' do Thiếu tướng [[Paul Tibbets]] và Chuẩn tướng [[Ira Eaker]] chỉ huy, được hộ tống bởi những máy bay tiêm kích [[Supermarine Spitfire]] của Không quân Hoàng gia, tham dự trận ném bom đầu tiên của Không lực Mỹ tại Châu Âu xuống [[ga đầu mối đường sắt]] tại [[Rouen]]-Sotteville trên nước Pháp.<ref name="Northstar"/><ref name="AOM">{{chú thích web | url = http://www.aviation-history.com/boeing/b17.html | title = Boeing B-17 Flying Fortress – USA |
=== Chiến lược tấn công phối hợp ===
Dòng 85:
Hai chiến lược khác nhau của Bộ chỉ huy ném bom Hoa Kỳ và Anh Quốc được tổ chức lại tại [[Hội nghị Casablanca]] vào [[tháng một|tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. Kết quả là [[Chiến dịch Pointblank]] được vạch ra nhằm một chiến lược "Phối hợp tấn công ném bom" nhằm làm suy yếu [[Quân đội Đức|quân đội]] [[Đức Quốc Xã]] và chiếm được ưu thế trên không nhằm chuẩn bị cho việc tấn công trên bộ.<ref name="Carey Pointblank"/> Chiến dịch Pointblank mở đầu bằng các cuộc tấn công các mục tiêu tại Tây Âu. Tướng [[Ira C. Eaker]] và Không lực 8 đặt ưu tiên cao nhất trong việc tấn công vào công nghiệp hàng không Đức, đặc biệt là các nhà máy lắp ráp máy bay tiêm kích, chế tạo động cơ và chế tạo vòng bi.<ref name="Carey Pointblank"/>
Ngày [[17 tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]], một cuộc tấn công vào nhà máy của [[Focke-Wulf]] tại [[Bremen]] thực hiện bởi 115 chiếc Fortress mang lại ít kết quả, 16 chiếc bị bắn rơi và 48 chiếc khác bị hư hại.<ref name="Fortress over Europe">{{chú thích web |last = Goebel |first =Greg |url= http://www.vectorsite.net/avb17_2.html |title= Fortress Over Europe |year =2005 |
Vì việc ném bom các sân bay Đức không làm giảm được tương xứng sức mạnh của máy bay tiêm kích Đức, nên đã có thêm các liên đội B-17 được thành lập nhằm đáp ứng yêu cầu của Eaker mở các chiến dịch đánh sâu hơn vào các mục tiêu công nghiệp Đức quan trọng. Giờ đây Không lực 8 nhắm đến các nhà máy vòng bi tại [[Schweinfurt]], hy vọng sẽ bóp nghẹt các nỗ lực chiến tranh ở đây. Đợt [[trận đánh Schweinfurt-Regensburg|tấn công]] đầu tiên ngày [[17 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]] không gây được tổn hại đáng kể nào cho nhà máy; trong khi với tổng số 230 chiếc B-17 tham gia tấn công bị đánh chặn bởi khoảng 300 máy bay tiêm kích Không quân Đức, đã có 36 máy bay bị bắn rơi và tổn thất 200 người. Cùng với trận không kích cùng ngày trước đó nhắm vào [[Regensburg]], tổng cộng có 60 chiếc B-17 bị mất trong ngày đó.<ref name="Hess.pp59-60">Hess 1994, trang 59–60.</ref>
Một nỗ lực thứ hai vào ngày [[14 tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]] mà sau này được biết đến như là [[trận không kích Schweinfurt thứ hai|"ngày thứ ba đen tối"]].<ref name="Walden">{{chú thích web | url = http://www.thirdreichruins.com/schweinfurt.htm | title = Third Reich in Ruins:Schweinfurt |
[[Tập tin:B-17F formation over Schweinfurt, Germany, August 17, 1943.jpg|phải|nhỏ|Đội hình những chiếc B-17F bên trên bầu trời [[Schweinfurt]], Đức, 17 tháng 8 năm 1943.]]
Dòng 97:
[[Tập tin:B-17G formation on bomb run.jpg|trái|nhỏ|B-17G thuộc Liên đội Ném bom 384 đang thả bom.]]
Cuộc tấn công thứ ba nhắm vào Schweinfurt ngày [[24 tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]] được ghi dấu sau này như là "[[Tuần lễ Vĩ đại]]". Với những chiếc máy bay tiêm kích [[North American P-51 Mustang|P-51 Mustang]] và [[Republic P-47 Thunderbolt|P-47 Thunderbolt]] (trang bị [[thùng nhiên liệu phụ vứt được]] cải tiến để tăng tầm bay) theo hộ tống suốt chặng đường đến mục tiêu và quay trở về, chỉ có 11 trong số 231 chiếc B-17 bị mất.<ref name="USAAF">{{chú thích web | url = http://www.usaaf.net/chron/44/feb44.htm | title = Combat Chronology of the US Army Air Forces: tháng 2 năm 1944 |
<ref>{{chú thích web | url = http://www.historylearningsite.co.uk/b17_flying_fortress.htm | title = B-17 Flying Fortress |
Cho đến [[tháng chín|tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], 27 trong tổng số 40 liên đội ném bom của Không lực 8 và sáu trong tổng số 21 liên đội ném bom của Không lực 15 sử dụng B-17. Tổn thất do [[pháo phòng không]] gây ra cho những máy bay ném bom hạng nặng tiếp tục ở mức độ cao trong suốt năm [[Hàng không năm 1944|1944]], nhưng cho đến ngày [[27 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]], (hai ngày sau trận ném bom hặng nặng lớn cuối cùng xuống Châu Âu) mức độ tổn thất thấp đến mức không cần bổ sung máy bay thay thế và số lượng máy bay trong mỗi liên đội ném bom được giảm bớt. Đợt phối hợp tấn công chiến lược đã được kết thúc một cách rất hiệu quả.<ref name="USAAF.04-45">{{chú thích web | url = http://www.usaaf.net/chron/45/apr45.htm | title = Combat Chronology of the US Army Air Forces: tháng 4 năm 1945|
| last = McKillop | first = Jack | date = | work = www.usaaf.net | quote = }}</ref>
Dòng 119:
B-17 được sử dụng trong các trận chiến ban đầu tại Thái Bình Dương nhưng đem lại ít kết quả, đáng kể là trong các [[Trận chiến biển Coral]] và [[Trận Midway]]. Trong lúc đó, những chiếc B-17 thuộc [[Không lực 5]] được giao nhiệm vụ phá vỡ các đường vận chuyển trên biển của Nhật. Học thuyết của Không lực hướng dẫn việc bay ném bom từ tầm cao, nhưng được phát hiện không lâu sau đó là chỉ có 1% bom trúng đích. Dù sao, B-17 hoạt động ở độ cao lớn đến mức đa số những chiếc máy bay tiêm kích [[Mitsubishi A6M Zero|A6M Zero]] không thể đạt tới, và trang bị vũ khí phòng thủ rất mạnh của chiếc B-17 là quá đủ cho những chiếc máy bay tiêm kích Nhật Bản vốn được bảo vệ khá mong manh.
Chỉ huy của [[Không lực 5]], Trung tướng [[George Kenney]], là một người rất hâm hộ kỹ thuật mới [[cắt ném bom]] (skip bombing) (một kỹ thuật ném bom mà bom được thả ở độ cao rất thấp, khiến bom chạm mặt nước ở một góc đủ nông để nó được "cắt" hay uốn cong xuống). Vào ngày [[2 tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]], sáu chiếc B-17 thuộc Phi Đội 64 đã tấn công một đoàn tàu vận tải binh lính từ độ cao 3 km (10.000 ft) trong giai đoạn đầu của [[trận chiến biển Bismarck]] ngoài khơi [[New Guinea]], đã áp dụng cách cắt bom và đánh chìm ba tàu buôn Nhật, trong đó có chiếc ''Kyokusei Maru''.<ref name="Frisbee">{{chú thích tạp chí | last =Frisbee | first =John L. | title =Valor:Skip-Bombing Pioneer | journal =Air Force Magazine | volume =73 | issue =12 | pages=|publisher =|date =tháng 12 năm 1990|url =http://www.afa.org/magazine/valor/1290valor.asp |
Chỉ có năm liên đội B-17 hoạt động tại [[Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Thế Chiến II|Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương]]. Vào lúc cao điểm có 168 chiếc máy bay ném bom B-17 hoạt động tại mặt trận này vào thời điểm [[tháng chín|tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]], tất cả đều chuyển sang loại máy bay khác vào giữa năm [[Hàng không năm 1943|1943]].
Dòng 127:
[[Tập tin:B-17 Schweinfurt.jpg|nhỏ|phải|Đội hình B-17 đang bay qua lưới lửa [[pháo phòng không]] dày đặc trên bầu trời [[Merseburg]], Đức]]
Trước khi có việc hộ tống tầm xa bằng [[máy bay tiêm kích]], những chiếc B-17 chỉ có thể dựa vào những khẩu súng máy [[M2 Browning]] 12,7 mm (0,50 in) để tự vệ trong khi ném bom bên trên bầu trời Châu Âu. Khi cuộc chiến ngày càng ác liệt, Boeing sử dụng những thông tin phản hồi từ các đội bay để cải tiến các phiên bản mới hơn với số vũ khí và vỏ giáp ngày càng tăng.<ref name="Boeing">{{chú thích web | url = http://www.boeing.com/history/boeing/b17.html
| title = History:B-17 Flying Fortress |
Một cuộc điều tra của Không lực Mỹ tiến hành năm [[Hàng không năm 1943|1943]] tìm thấy rằng trên phân nửa các máy bay ném bom bị Đức bắn rơi đã rời bỏ sự bảo vệ của đội hình chính.<ref name="B-17.de 2">{{chú thích web | url = http://www.b17flyingfortress.de/english/index.php?id=htm/details/formation.htm | title = Formation |
Kết quả là, tỉ lệ tổn thất của B-17 cao đến 25% trong một số phi vụ lúc đầu (60 trong tổng số 291 chiếc B-17 bị mất trong chiến đấu trong đợt không kích thứ hai nhắm vào [[Schweinfurt]]<ref name="Caidin">{{chú thích sách | last =Caidin | first =Martin | title =Black Thursday | publisher =E.P. Dutton & Co. Inc.| location =New York | date =1960 |pages =| url = | doi = | isbn =0-553-26729-9 | accessdate = }}</ref>), và phải cho đến khi có sự tham gia của việc hộ tống tầm xa bằng máy bay tiêm kích hiệu quả (đặc biệt là bởi những chiếc [[North American P-51 Mustang|P-51 Mustang]]), làm suy yếu lực lượng máy bay tiêm kích đánh chặn Đức giữa [[tháng hai|tháng 2]] và [[tháng sáu|tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], mà những chiếc B-17 mới trở nên lực lượng chiến lược đầy uy lực.
Chiếc B-17 được ghi nhận là có khả năng chịu đựng hư hại trong chiến đấu mà vẫn đến ̣được mục tiêu và đưa đội bay quay về căn cứ an toàn. Wally Hoffman, một phi công B-17 của Không Lực 8 trong Thế Chiến II, đã nói: "Chiếc máy bay có thể bị cắt và chém hầu như ra thành từng mảnh do hỏa lực đối phương và vẫn có thể mang đội bay của nó quay về nhà."<ref name="Hoffman">{{chú thích web | url = http://www.storyhouse.org/wally6.html | title = We Get Our Feet Wet |
Thiết kế của chiếc B-17 trải qua tám thay đổi lớn trong suốt quá trình sản xuất, tích lũy lại nơi phiên bản B-17G, khác biệt phiên bản ngay trước nó bằng việc bổ sung một tháp súng "cằm" gồm hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) [[M2 Browning]] dưới mũi máy bay. Điều này đã cho phép hạn chế được điểm yếu kém chính trong phòng thủ của chiếc B-17 khi bị tấn công trực diện.
Dòng 141:
[[Tập tin:B-17-battle-casualty1.gif|nhỏ|trái|Chiếc B-17F-5-BO ''All American'', số hiệu ''41-24406'', thuộc Phi đội 414, Liên đội 97 sau khi va chạm với một chiếc [[Focke-Wulf Fw 190|Fw 190]] ngày [[1 tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]] trong một phi vụ đến Bizerte. Trung úy phi công Kendrick R. Bragg mang được máy bay quay về căn cứ an toàn, nơi nó được sửa chữa và tiếp tục hoạt động cho đến khi bị thải hồi ngày [[6 tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]]. Ảnh do đồng đội trên chiếc Fortress ''41-24412'' chụp.]]
Sau khi khảo sát xác những chiếc B-17 và B-24 bị bắn rơi, các quan chức [[Không quân Đức]] khám phá ra rằng phải bắn trúng ít nhất 20 phát đạn pháo [[MG 151]] 20 mm (0,79 inch) bắn từ phía sau mới có thể bắn hạ một chiếc B-17. Những phi công với khả năng trung bình chỉ có thể bắn trúng những chiếc máy bay ném bom với khoảng 2% số đạn bắn ra, cho nên để đạt được 20 phát trúng, một phi công trung bình phải ngắm bắn khoảng một ngàn quả đạn pháo 20 mm (0,79 inch) vào chiếc máy bay ném bom. Những phiên bản đầu tiên của chiếc [[Focke-Wulf Fw 190|Fw 190]], một trong những máy bay tiêm kích đánh chặn tốt nhất của Đức, được trang bị hai pháo [[MG FF]] 20 mm (0,79 inch) và chỉ mang theo được 500 quả đạn. Tầm bắn 400 m của chiếc máy bay tiêm kích cũng ngắn hơn tầm bắn 1.000 m của chiếc B-17, nên nó trở nên mong manh khi tiếp cận chiếc máy bay ném bom, cho dù sau đó với kiểu pháo [[MG 151|Mauser MG 151/20]] tốt hơn, có tầm bắn hiệu quả cao hơn so với kiểu MG FF. Phi công tiêm kích Đức nhận ra rằng khi tấn công trực diện, nơi có ít khẩu súng phòng thủ được ngắm đến, chỉ cần bốn hay năm phát trúng là có thể bắn hạ chiếc máy bay ném bom.<ref name="AFM.76-9">{{chú thích tạp chí | last = Price | first =Alfred | title =Against Regensburg and Schweinfurt | journal =Air Force Magazine | volume = 76 | issue = 9 | pages = | publisher =|date=tháng 9 năm 1993|url= http://www.afa.org/magazine/1993/0993against.asp |
Không quân Đức cũng áp dụng vào giữa [[tháng tám|tháng 8]] năm [[hàng không năm 1943|1943]], như một kiểu tấn công "cân bằng", loại vũ khí cối rocket ''Werfer-Granate 21'' (Wfr. Gr. 21) phóng ra từ những ống phóng hình trụ gắn một chiếc cố định dưới mỗi cánh trên những chiếc máy bay tiêm kích một động cơ của Không quân Đức, và hai ống phóng dưới mỗi cánh trên một số chiếc máy bay tiêm kích hạng nặng ban ngày [[Messerschmitt Bf 110|Bf 110]], với kỳ vọng chúng sẽ là vũ khí chống ném bom chủ lực. Tuy nhiên, do tính chất đường đạn đi xuống của rocket khi bắn ra, ngay cả khi ống phóng được gắn chếch lên một góc 15°, và cũng do số ít máy bay được trang bị loại vũ khí này, kiểu cối rocket Wfr.Gr. 21 chưa bao giờ có ảnh hướng lớn đến đội hình chiến đấu của những chiếc Fortress. Cũng phải kể đến những nỗ lực của Không quân Đức nhằm trang bị các khẩu pháo cỡ lớn ''Bordkanone'' cỡ nòng 37, 50 và thậm chí là 75 mm (2,95 inch) trên những máy bay hai động cơ như là kiểu tiêm kích đặc biệt [[Junkers Ju 88|Ju 88P]], và ngay cả trên một phiên bản của kiểu máy bay [[Messerschmitt Me 410|Me 410]] ''Hornisse''. Dù sao, các loại vũ khí chống ném bom này ít có hiệu quả trên các đợt tấn công ném bom chiến lược của Hoa Kỳ.
Chiếc [[Messerschmitt Me 262|Me 262]] cũng ghi được những thắng lợi trung bình trên chiếc B-17 trong giai đoạn sau của cuộc chiến. Với vũ khí trang bị thường xuyên gồm bốn pháo [[MK 108]] gắn trước mũi, và trên một số phiên bản còn được trang bị rocket [[R4M]] mang trên đế dưới cánh, nó có thể bắn từ bên ngoài tầm của những khẩu súng máy 0,50 in phòng thủ của chiếc máy bay ném bom, và bắn hạ nó chỉ với một phát trúng duy nhất.<ref name="Schollars">{{chú thích web| url = http://www.findarticles.com/p/articles/mi_m0IBO/is_3_27/ai_111852898| title = German wonder weapons: degraded production and effectiveness|
[[Tập tin:B17 kg200.jpg|nhỏ|phải|Chiếc B-17F-27-BO do [[Không quân Đức]] chiếm được, nguyên là máy bay của Không lực Mỹ tên "Wulf Hound", số hiệu ''41-24585'', thuộc Phi đội 360, Liên đội Ném bom 303, bị mất tích trong hoạt động vào ngày 16 tháng 10 năm 1942. Được đưa ra hoạt động trong [[Phi đoàn Chiến đấu 200]] Không quân Đức.]]
Trong Thế Chiến II, sau khi bị rơi hoặc buộc phải hạ cánh, có khoảng 40 chiếc B-17 bị Không quân Đức chiếm giữ và tân trang, và khoảng một tá chiếc được đưa trở lại hoạt động. Được sơn màu của Đức và mang tên hiệu "Dornier Do 200"<ref name="Do 200">{{chú thích web | url = http://www.geocities.com/pentagon/2833/luftwaffe/transport/do200/do200.html | title = Dornier Do 200 |
=== Hoạt động sau chiến tranh ===
Dòng 175:
Mười bảy chiếc B-17G Không lực do Vega chế tạo được lực lượng [[Tuần duyên Hoa Kỳ]] sử dụng dưới tên gọi PB-1G. Vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[hàng không năm 1945|1945]], 18 chiếc B-17 được Không lực Mỹ dành riêng ra để chuyển cho Tuần duyên Mỹ thông qua Hải quân. Những máy bay này ban đầu mang số hiệu của hải quân và chiếc PB-1G đầu tiên được giao cho lực lượng Tuần duyên vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[hàng không năm 1946|1946]]. Trong thực tế chỉ có mười lăm chiếc PB-1G được giao, và lực lượng Tuần duyên sở hữu thêm một máy bay nữa trực tiếp từ Không quân Mỹ vào năm [[hàng không năm 1947|1947]].
Những chiếc PB-1G của lực lượng Tuần duyên Mỹ được bố trí khắp Bắc Bán cầu, với năm chiếc tại [[Căn cứ Không lực Tuần duyên Elizabeth City]], [[Bắc Carolina|North Carolina]], hai chiếc tại [[sân bay quốc tế San Francisco|Căn cứ Không lực Tuần duyên San Francisco]], hai chiếc tại [[Căn cứ Không lực Hải quân Argentia]], [[Newfoundland]], một chiếc tại [[Căn cứ Không lực Tuần duyên Kodiak]], [[Alaska]], và một chiếc tại tiểu bang Washington. Chúng được sử dụng chủ yếu cho việc cứu nạn hàng hải, nhưng cũng được dùng cho việc tuần tra băng trôi và chụp ảnh bản đồ. Những chiếc PB-1G cứu nạn hàng hải thường mang theo một bè cứu sinh thả được bên dưới thân, và được sơn màu vàng-đen truyền thống của việc cứu nạn. Tháp pháo dưới cằm thường được thay thế bằng một vòm radar. Trong những năm sau chiến tranh, PB-1G Tuần duyên Mỹ được sơn huy hiệu quốc gia trên cánh đuôi đứng thay vì trên thân máy bay, một điều mà những chiếc máy bay cánh cố định của lực lượng này vẫn còn áp dụng cho đến ngày nay. Chúng tiếp tục phục vụ trong vài trò này cho đến hết [[thập niên 1950]], khi chiếc cuối cùng được rút khỏi phục vụ vào ngày [[14 tháng 10]] năm [[hàng không năm 1959|1959]]. Chiếc máy bay cuối cùng được bán do dư thừa, được sử dụng nhiều năm như một máy bay chở dầu, và ngày nay được trưng bày tại Arizona.<ref name="Baugher PB-1">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url=http://home.att.net/~jbaugher2/b17_19.html |title=PB-1 Naval Fortress |publisher=Home.att.net
==== Các ứng dụng khác ====
Hiện nay còn khoảng một tá chiếc B-17 còn bay được trong khoảng năm chục khung máy bay còn sống sót. Nhiều chiếc trong số này là những máy bay dư thừa hoặc máy bay huấn luyện, vốn được giữ lại Mỹ trong Thế Chiến II. Tuy nhiên, cũng có vài ngoại lệ.
Nhiều chiếc B-17 cùng với các kiểu máy bay ném bom khác thời Thế Chiến II được chuyển sang làm [[máy bay hành khách dân dụng]]. Những chiếc B-17 khác kéo dài thời gian phục vụ của nó như những máy bay phun thuốc trừ sâu tại vùng Đông Nam Hoa Kỳ, hoặc máy bay chở nước trên không dùng để chống lại cháy rừng vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.<ref name="Commercial Transports">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_26.html |title= B-17 Commercial Transports |
== Các phiên bản/giai đoạn thiết kế ==
Dòng 191:
| Kiểu 299 || 1 || [[28 tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1935|1935]]<ref name="first flight"/>
|-bgcolor="#f5faff"
| YB-17 || 13 || [[2 tháng 12]] năm [[Hàng không năm 1936|1936]]<ref name="Baugher Y1B-17">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_2.html |title= Boeing Y1B-17
|-
| YB-17A || 1 || [[29 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1938|1938]].<ref name="Donald"/>
Dòng 197:
| B-17B || 39 || [[27 tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1939|1939]]<ref name="Baugher B-17B"/>
|-
| B-17C || 38 || [[21 tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1940|1940]]<ref name="Baugher B-17C">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_5.html |title= Boeing B-17C Fortress
|-bgcolor="#f5faff"
| B-17D || 42 || [[3 tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]]<ref name="Baugher B-17D">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_7.html |title= Boeing B-17D Fortress
|-
| B-17E || 512 || [[5 tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]]<ref name="Baugher B-17E">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_8.html |title= Boeing B-17E Fortress
|-bgcolor="#f5faff"
| B-17F || 3.405 || [[30 tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]]<ref name="Baugher B-17F">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_11.html |title= Boeing B-17F Fortress
|-
| B-17F-BO || 2.300 ||
Dòng 222:
|}
Chiếc B-17 trải qua nhiều biến đổi trong mỗi giai đoạn thiết kế và các phiên bản. Trong số 13 chiếc '''YB-17''' được đặt hàng để thử nghiệm hoạt động, 12 chiếc được Liên đội Ném bom 2 tại sân bay Langley, Virginia sử dụng để phát triển kỹ thuật ném bom hạng nặng, trong khi chiếc thứ 13 được giao cho ''Bộ phận Hậu cần'' tại sân bay Wright Field, Ohio dùng để bay thử nghiệm.<ref name="Y1B-17">{{chú thích web |url= http://www.nationalmuseum.af.mil/factsheets/factsheet.asp?id=2500 |title= Boeing y1b-17
[[Tập tin:Boeing XB-17 blister turret.jpg|nhỏ|trái|Tháp súng dạng ló ra trên chiếc Kiểu 299, không được áp dụng vào sản xuất]]
Dòng 230:
[[Tập tin:B-17G Nose in Detail.jpg|upright|nhỏ|trái|Chi tiết mũi máy bay phiên bản B-17G]]
Cho đến khi phiên bản cuối cùng '''B-17G''' xuất hiện, số lượng súng máy đã tăng từ bảy lên mười ba khẩu, thiết kế các vị trí súng được cố định, và các điều chỉnh khác cũng hoàn tất. Chiếc B-17G là phiên bản chót của B-17, bao gồm mọi thay đổi đã thực hiện trên phiên bản trước đó, chiếc '''B-17F''', và có tổng cộng 8.680 chiếc được chế tạo, chiếc cuối cùng vào ngày [[9 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]].<ref name="B-17.de 3">{{chú thích web | url = http://www.b17flyingfortress.de/english/index.php?id=htm/general/chronicle.htm | title = Chronicle
[[Tập tin:Boeing SB-17G.jpg|nhỏ|phải|Chiếc SB-17G Flying Fortress, số hiệu ''44-83722'', còn được gọi là B-17H, dùng làm máy bay tìm kiếm và giải cứu. Khung máy bay này sau đó được sử dụng như là một mục tiêu trong ba chiến dịch thử nghiệm nguyên tử ''Snapper'' tại Yucca Flats trong thập niên 1950 và bị hư hại nặng. Phần còn lại được sử dụng để phục hồi khung máy bay số hiệu ''44-85813'' tại Urbana, Ohio.]]
Hai phiên bản của chiếc B-17 đã bay dưới những tên khác, đó là chiếc [[Boeing XB-38 Flying Fortress|XB-38]] và chiếc [[YB-40 Flying Fortress|YB-40]]. Chiếc '''XB-38''' là một nền tảng dùng trong thử nghiệm kiểu động cơ [[Allison V-1710]] làm mát bằng nước, dự phòng trường hợp kiểu động cơ Wright được sử dụng bình thường trên chiếc B-17 không sẵn có. Chiếc '''YB-40''' là một phiên bản cải tiến dựa trên chiếc B-17 tiêu chuẩn được vũ trang mạnh, được sử dụng trước khi kiểu máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa rất hiệu quả [[North American P-51 Mustang|P-51 Mustang]] được đưa ra hoạt động hộ tống việc ném bom. Vũ khí bổ sung bao gồm một tháp súng vận hành bằng điện tại phòng điện báo, tháp súng cằm (được tiếp tục trở thành trang bị tiêu chuẩn trên phiên bản B-17G) và hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) bên hông. Tổng số đạn được mang theo là trên 11.000 viên, làm cho chiếc YB-40 nặng hơn trên 4.500 kg (10.000 lb) so với một chiếc B-17F chất đầy tải. Không may là, chiếc YB-40 với rất nhiều trang bị nặng gặp phải vấn đề không theo kịp tốc độ những chiếc máy bay ném bom rỗng, và do đó, cùng với sự ra đời của chiếc P-51 Mustang, kế hoạch bị dừng và cuối cùng kết thúc vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]].<ref name="Baugher XB-38">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_9.html |title= Vega XB-38
Vào cuối Thế Chiến II, có ít nhất 25 máy bay B-17 được dùng làm máy bay giả, trang bị hệ thống điều khiển bằng radio và chất đầy 9.000 kg (20.000 lb) chất nổ [[Torpex]] và [[Trinitrotoluen|TNT]], được đặt tên là "tên lửa '''BQ-7''' [[Chiến dịch Aphrodite|Aphrodite]]", và được sử dụng để chống lại các hầm ngầm chứa tên lửa [[V-1]] và các [[công sự]] đề kháng bom. [[Chiến dịch Castor]] được bắt đầu vào ngày [[23 tháng 6]] năm [[hàng không năm 1944|1944]], sử dụng Liên đội Ném bom 388 tại [[Knettishall]]. Một sân bay tại vùng dân cư thưa thớt của [[Norfolk]] được chọn làm [[Căn cứ Không quân Hoàng gia Fersfield]] gần [[Winfarthing]]. Máy bay giả sử dụng thường là một chiếc B-17 Fortress, và do một máy bay [[B-34 Ventura]] điều khiển để đâm vào mục tiêu.<ref name="Ramsey">Ramsey, Winston G. ''The V-Weapons''. London, United Kingdom: ''After The Battle'', Số 6, 1974, trang 21.</ref> Bốn chiếc "tên lửa" kiểu này đã được gửi đến [[Mimoyecques]], [[Siracourt]], [[Watten, Nord|Watten]] và [[Wizernes]] vào ngày [[4 tháng 8]], và chỉ gây thiệt hại nhẹ. Vào ngày [[6 tháng 8]], có thêm hai chiếc B-17 đâm xuống Watten với chút ít thành công. Dự án này đột ngột bị hủy bỏ sau khi có một vụ nổ máy bay trên không trung không giải thích được tại khu vực cửa sông [[Blyth]], liên quan đến một chiếc [[Consolidated B-24 Liberator|Liberator]] trong thành phần lực lượng của [[Hải quân Hoa Kỳ]] tham gia "Kế hoạch Anvil", đang trên đường đi đến [[Heligoland]] và do Trung úy phi công [[Joseph P. Kennedy Jr.]], anh trai của [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống Mỹ]] tương lai [[John F. Kennedy]], điều khiển. Mảnh vỡ của vụ nổ trải rộng một khu vực có đường kính lên đến 8 km (5 dặm), và các quan chức Anh lo lắng rằng những tai nạn tương tự có thể lại xảy ra.<ref name="Ramsey"/> Vì hầu như rất ít (hoặc không có) chiếc BQ-7 nào trúng đích, những chiếc trong kế hoạch Aphrodite bị tháo bỏ vào năm [[Hàng không năm 1945|1945]].<ref name="Baugher BQ-7">{{chú thích web |last = Baugher |first =Joe |url= http://home.att.net/~jbaugher2/b17_14.html |title= History of the BQ-7
Trong và sau Thế Chiến II, một số loại vũ khí được thử nghiệm và sử dụng trên chiếc B-17, trong số đó có bom lượn "razon" (điều khiển bằng radio), và [[Ford]]-[[Republic]] [[JB-2 Loon]] (còn có tên lóng là Thunderbugs), một kiểu mẫu sao chép kỹ thuật của Mỹ từ kiểu bom bay Đức [[V-1]]. Một đoạn phim về chiếc V-1/JB-2 đang bay trên không được sử dụng rộng rãi trong nhiều phim tài liệu về [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]] thực ra được quay từ một máy bay Không lực Mỹ [[Douglas A-26 Invader|A-26]] tại [[Căn cứ Không quân Eglin]], và được phóng từ đảo Santa Rosa, Florida. Vào cuối những năm [[Thập niên 1950|1950]], những chiếc B-17 cuối cùng hoạt động trong Không quân Hoa Kỳ là những máy bay mục tiêu giả '''QB-17''' và máy bay điều khiển mục tiêu giả '''DB-17P''', cùng một vài chiếc '''VB-17''' tân trang được sử dụng linh tinh tại các phi đội.
Dòng 254:
[[Tập tin:B-17 Damage Cologne.jpg|nhỏ|phải|Chiếc B-17G số hiệu [http://www.398th.org/Images/Images_Aircraft_B-17/Text/43-38172-3O-P_19441015_JBk.html ''43-38172''] thuộc Phi đội 601, Liên đội Ném bom 398, bị hư hại trong phi vụ ném bom xuống [[Köln|Cologne]], [[Đức]], vào ngày [[15 tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]]; sĩ quan ném bom George E. Abbott bị thiệt mạng. Phi công Trung úy Lawrence De Lancey đã đem chiếc Fortress bị hư hại quay trở về được [[Nuthampstead]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]], nơi ảnh được chụp. Chú ý đến hiệu quả hướng lên trên của trái đạn pháo phòng không.]]
Các nhà làm phim [[Hollywood]] đã mang chiếc máy bay lên những cuốn phim của họ, như là ''[[Twelve O'Clock High]]'' với sự tham gia của [[Gregory Peck]].<ref name="imdb1">{{chú thích web |url= http://www.imdb.com/title/tt0041996/ |title= Twelve O'Clock High (1949)
Trong chiến tranh, [[Không lực 8]], lực lượng ném bom tấn công lớn nhất, được chỉ huy bởi các sĩ quan từng công khai ưa chuộng chiếc B-17. Trung tướng [[Jimmy Doolittle]] đã viết về ý muốn của ông để trang bị B-17 cho Không lực 8. Dẫn chứng ưu thế về tiếp liệu khi giữ các đơn vị ở tiền phương có số chủng loại máy bay tối thiểu với việc bảo trì và phụ tùng đặc trưng, ông mong mỏi được trang bị máy bay ném bom B-17 và máy bay tiêm kích P-51. Quan điểm của ông được các nhà phân tích thống kê của Không lực 8 ủng hộ, khi các nghiên cứu thừa nhận những chiếc Fortress có tính năng động và khả năng sống sót lớn hơn nhiều so với chiếc B-24.<ref name="Johnsen 2006"/>
Dòng 260:
Được ưa chuộng bởi các đội bay vì đưa được họ về nhà cho dù bị thiệt hại đáng kể trong chiến đấu, sự bền bỉ của nó, đặc biệt là khả năng đáp bằng bụng và đáp trên mặt biển, nhanh chóng trở nên huyền thoại.<ref name="Manual"/><ref name=browne/><ref name="Eaker"/> Những câu chuyện và hình ảnh về những chiếc B-17 sống sót sau các hư hại trong chiến đấu được lưu truyền rộng rãi, nâng cao tính biểu trưng của nó.<ref name="Johnsen 2006"/> Cho dù có tính năng bay và tải trọng bom kém hơn so với những chiếc [[Consolidated B-24 Liberator|B-24 Liberator]] có số lượng nhiều hơn,<ref name="Baugher 299"/> một cuộc khảo sát trên các đội bay của [[Không lực 8]] cho thấy một tỉ lệ hài lòng nhiều hơn trên chiếc B-17.<ref name="B-17.de"/>
Chiếc máy bay B-17 nổi tiếng nhất, chiếc [[Memphis Belle]], đã được cho bay cùng với đội bay của nó vòng quanh nước Mỹ để tuyên truyền cho tinh thần quốc gia (và để bán [[Trái phiếu Chiến tranh]]), và đã xuất hiện trong một phim tài liệu của Không lực Mỹ: ''[[Memphis Belle: A Story of a Flying Fortress]]''.<ref name="imdb2">{{chú thích web |url= http://www.imdb.com/title/tt0036152/ |title= The Memphis Belle: A Story of a Flying Fortress (1944)
|accessdate=16 tháng 1 năm 2007|work= Internet Movie Database}}</ref> Sau khi chiến tranh kết thúc, đa số những chiếc B-17 bị tháo dỡ, nhưng Không quân Mỹ có giữ lại một số chiếc B-17 dành để chuyên chở các yếu nhân và hướng dẫn mục tiêu giả. Hải quân và lực lượng [[Tuần duyên Hoa Kỳ|Tuần duyên]] sở hữu 30 chiếc B-17 từ năm [[Hàng không năm 1945|1945]], được sử dụng để tuần tra biển, dưới tên gọi '''PB-1G''' như là máy bay tìm kiếm cứu nạn, tương tự như chiếc B-17H của Không lực; và kiểu '''PB-1W''', máy bay tuần tra duyên hải trang bị radar cảnh báo sớm. Chiến trang đã kết thúc trước khi những chiếc PB-1W được đưa vào hoạt động và các trang bị phòng vệ sau đó được tháo bỏ. Lực lượng Phòng vệ Duyên hải cho nghỉ hưu chiếc PB-1G cuối cùng số hiệu ''77254'' vào [[tháng mười|tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1959|1959]], là chiếc Fortress cuối cùng hoạt động trong quân đội Mỹ.
Hàng 344 ⟶ 345:
* Trung úy [[John C. Morgan]]<ref>Frisbee, John L. "Valor: Crisis in the Cockpit." ''Air Force Magazine'' Tập 67, Số 1, tháng 1 năm 1984.</ref>
* Đại úy [[Harl Pease]] (truy tặng)<ref>Frisbee, John L. "Valor: Rabaul on a Wing and a Prayer." ''Air Force Magazine'' Tập 73, Số 7, tháng 7 năm 1990.</ref>
* Thiếu úy [[Joseph Sarnoski]] (awarded posthumously)<ref>{{chú thích web|url=http://www.homeofheroes.com/moh/citations_1940_wwii/sarnoski.html|title=MOH citation of SARNOSKI, JOSEPH R.
| accessdate =12 tháng 1 năm 2007}}</ref> * Thượng sĩ [[Maynard Harrison Smith|Maynard H. Smith]]<ref>Frisbee, John L. "Valor: First of the Few." ''Air Force Magazine'' Tập 67, Số 4, tháng 4 năm 1984.</ref>
* Trung úy [[Walter E. Truemper]] (truy tặng)<ref name="Point of Honor"/>
Hàng 353 ⟶ 355:
=== Các thành tích và sự kiện quân sự ===
* [[Allison Brooks|Allison C. Brooks]] (1917–2006): Được tặng thưởng nhiều huân chương quân sự, và cuối cùng được thăng đến cấp bậc Thiếu tướng, phục vụ trong quân đội thường trực cho đến năm [[1971]].
* Đại úy [[Werner G. Goering]]: Người Mỹ gốc Đức sinh trưởng tại Hoa Kỳ, cháu của Tư lệnh [[Không quân Đức|Không quân]] [[Đức Quốc Xã]] trong Thế Chiến II [[Hermann Göring]].<ref>{{chú thích web| url = http://www.303rdbg.com/358goering.html| title = Werner G. Goering Crew – 358th BS
* [[Immanuel J. Klette]] (1918–1988): Người Mỹ gốc Đức thế hệ thứ hai, tham gia 91 phi vụ chiến đấu, đứng đầu số phi vụ mà một phi công Không lực 8 từng thực hiện trong Thế Chiến II.<ref>Freeman 1993, trang 497–500.</ref>
* [[Colin Kelly]] (1915–1941): Phi công B-17 Hoa Kỳ đầu tiên bị mất trong chiến đấu.<ref>Frisbee, John L. "Valor: Colin Kelly (He was a Hero in Legend and in Fact)." ''Air Force Magazine'' Tập 77, Số 6, tháng 6 năm 1994.</ref>
Hàng 384 ⟶ 386:
Nguồn: The Encyclopedia of World Aircraft<ref name="Donald"/>
=== '''Đặc tính chung''' ===
* Đội bay: 10 người: <small>Phi công, phi công phụ, hoa tiêu, ném bom/xạ thủ súng máy mũi, kỹ sư/xạ thủ tháp súng lưng, điện báo viên, xạ thủ súng máy hông (2 người), xạ thủ tháp súng bụng, xạ thủ pháo đuôi.</small><ref name="Arizona">{{chú thích web | url = http://www.arizonawingcaf.com/pages/crew.html | title = B-17 Flying Fortress Crew Positions
* Chiều dài: 22,66 m (74 ft 4 in)
* [[Sải cánh]]: 31,62 m (103 ft 9 in)
|