Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vật lý hạt nhân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Hoangdat bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, General fixes using AWB
KingPika (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 6:
 
== Lịch sử ==
Lịch sử của vật lý hạt nhân như là một môn học khác với [[vật lý nguyên tử]] bắt đầu với việc phát hiện ra phóng xạ bởi [[Henri Becquerel]] năm 1896, trong khi điều tra hiện tượng lân quang trong muối uranium. Việc phát hiện ra các điện tử của [[Joseph John Thomson]] một năm sau đó là một sự chỉ ra cho thấy các nguyên tử có cấu trúc bên trong. Vào đầu thế kỷ 20, mô hình nguyên tử được chấp nhận là mô hình bánh mận (Plum pudding model) trong đó nguyên tử là một quả bóng điện tích duơngdương lớn với các hạt electron điện tích âm được nhúng bên trong nó. Bước sang thế kỷ này các nhà vật lý cũng đã phát hiện ra ba loại bức xạ phát ra từ các nguyên tử, mà họ đặt tên là alpha, beta, và bức xạ gamma. Các thí nghiệm vào năm 1911 bởi Otto Hahn và James Chadwick vào năm 1914 phát hiện ra rằng quang phổ phân rã beta là liên tục chứ không phải là rời rạc. Có nghĩa là, các điện tử bị đẩy khỏi nguyên tử với một loạt các nguồn năng lượng, chứ không phải là số rời rạc của các nguồn năng lượng đã được quan sát thấy trong phân rã gamma và alpha. Đây là một vấn đề đối với vật lý hạt nhân vào thời điểm đó, bởi vì nó chỉ ra rằng năng lượng không được bảo tồn trong các phân rã.
 
Vào năm 1915, [[Albert Einstein]] xây dựng ý tưởng của sự tương đương năng lượng-khối lượng. Trong khi công việc về hiện tượng phóng xạ bởi Becquerel và Marie Curie xảy ra trước đây, một sự giải thích về nguồn năng lượng phóng xạ đã phải đợi đến sự khám phá ra rằng bản thân hạt nhân là sự kết của các phần phần nhỏ hơn, các nơ-tron.