Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận chiến đảo Rennell”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã lùi lại sửa đổi 16943982 của 113.22.68.68 (Thảo luận)
n clean up, replaced: sữa chữa → sửa chữa, → using AWB
Dòng 1:
{{Infobox Military Conflict
|conflict=Trận chiến đảo Rennell
|image=[[File:USS Chicago after Rennell Island.jpg|300px| ]]
|caption=Tuần dương hạm hạng nặng USS ''[[USS Chicago (CA-29)|Chicago]]'' vào sáng ngày 30 tháng 1 năm 1943, bị hư hại nặng do bị tấn công bằng ngư lôi đêm trước đó.
|partof=[[Chiến tranh Thái Bình Dương|Mặt trận Thái Bình Dương]] trong<br>[[Chiến tranh thế giới thứ hai]]
Dòng 31:
Cuộc triệt thoái được mang tên [[Chiến dịch Ke|Chiến dịch ''Ke'']] (ケ号作戦) và dự tính bắt đầu từ ngày [[14 tháng 1]] năm [[1943]].<ref name="Dull268">{{harvnb|Paul S.Dull|1978|p=268}}.</ref> Một yếu tố quan trọng để đảm bảo sự thành công của chiến dịch là chiếm ưu thế trên không. Từ ngày 28 tháng 1 năm 1943, không quân Nhật gia tăng hoạt động để ngăn chặn không quân và các chiến hạm Đồng Minh phá hỏng giai đoạn cuối của kế hoạch triệt thoái.<ref>{{harvnb|Frank O. Hough|pp=541}}.</ref> Quân Đồng Minh nhầm tưởng chiến dịch ''Ke'' là một nỗ lực mới của quân Nhật nhằm tái chiếm Guadalcanal.<ref>{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=351}}.</ref> Cùng thời điểm này, Đô đốc [[William Halsey, Jr.]], chỉ huy trưởng quân Đồng Minh tại mặt trận Nam Thái Bình Dương bị các thượng cấp gây áp lực buộc phải thay thế [[Trung đoàn Thủy quân lục chiến 2 (Hoa Kỳ)|Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 2]] đã chiến đấu tại Guadalcanal từ tháng 8 bằng lính lục quân.<ref>{{harvnb|Frank O. Hough|pp=577}}.</ref> Halsey nhân đó muốn cùng lúc thay thế quân tại Guadalcanal đồng thời ngăn chặn hải quân Nhật yểm trợ cho cuộc tấn công mới của quân Nhật.<ref name="McGee216">{{harvnb|William L. McGee|2002|p=216}}.</ref> Ngày 29 tháng 1 năm 1943, Halsey đưa năm lực lượng đặc nhiệm đến nam quần đảo Solomon để bảo vệ đoàn chuyển vận hạm và chặn đánh bất kỳ chiến hạm Nhật nào trong khu vực. Năm lực lượng đặc nhiệm này có tổng cộng hai [[tàu sân bay]], hai [[tàu sân bay hộ tống]], ba [[thiết giáp hạm]], 12 [[tuần dương hạm]] và 25 khu trục hạm.<ref>{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=352}}.</ref>
 
Đoàn chuyển vận hạm được gọi là Nhóm Đặc nhiệm 62.8, bao gồm bốn tàu chở quân và bốn khu trục hạm.<ref>{{harvnb|Frank O. Hough|pp=577-578}}.</ref> Lực lượng trực tiếp bảo vệ đoàn chuyển vận và đi đầu là Lực lượng Đặc nhiệm 18 (Task Force 18 - TF 18) chỉ huy bởi Chuẩn đô đốc [[Robert C. Giffen]] bao gồm ba tuần dương hạm hạng nặng USS ''[[USS Wichita (CA-45)|Wichita]]'', ''[[USS Chicago (CA-29)|Chicago]]'' và ''[[USS Louisville (CA-28)|Louisville]]'', ba tuần dương hạm hạng nhẹ ''[[USS Montpelier (CL-57)|Montpelier]]'', ''[[USS Cleveland (CL-55)|Cleveland]]'' và ''[[USS Columbia (CL-56)|Columbia]]'', hai tàu sân bay hộ tống ''[[USS Chenango (CVE-28)|Chenango]]'' và ''[[USS Suwannee (CVE-27)|Suwannee]]'' và tám khu trục hạm. Kỳ hạm của TF 18 là chiếc ''Wichita''.<ref name="Crenshaw62">{{harvnb|Russell Sydnor Crenshaw|1998|p=62}}.</ref> Lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay, chủ lực là chiếc USS ''[[USS Enterprise (CV-6)|Enterprise]]'' ở vị trí phía sau TF 18 và TG 62.8 khoảng 400 &nbsp;km (250 dặm). Các chiến hạm còn lại cách sau đó khoảng 240 &nbsp;km (150 dặm). Đô đốc Giffen cùng chiếc ''Wichita'' và hai tàu sân bay hộ tống vừa trở về từ [[Chiến dịch Bắc Phi|Bắc Phi]] sau khi tham gia [[Chiến dịch Bó đuốc]].<ref>{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=352-353}}.</ref> Còn chiếc ''Chicago'' cũng vừa trở lại chiến đấu sau khi hoàn tất việc sửa chữa những hư hỏng gặp phải tại [[Trận chiến đảo Savo]] sáu tháng trước đó.<ref name="Crenshaw62"/>
 
== Diễn biến chiến dịch ==
=== Diễn biến ban đầu ===
[[File:RennellChicago.jpg|thumb|right|Các tuần dương hạm hạng nặng thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 18 của Giffen trên đường tiến đến Guadalcanal ngày 29 tháng 1 năm 1943, ảnh chụp một giờ trước khi các máy bay Nhật bắt đầu tấn công với góc chụp từ chiếc USS ''Wichita''. USS ''Chicago'' ở giữa bên phải còn ở phía xa là chiếc ''Louisville''.]]
Để bảo vệ đoàn chuyển vận hiệu quả hơn, TF 18 được giao nhiệm vụ gặp bốn khu trục hạm, đóng tại Tulagi, vào lúc 21 giờ ngày 29 tháng 1 để thực hiện một cuộc rà soát quanh khu vực "The Slot" phía bắc Guadalcanal ngày hôm sau để bảo vệ cho việc dỡ hàng của các chuyển vận hạm tại Guadalcanal.<ref name="guadalcanal578"/> Tuy nhiên các tàu sân bay hộ tống do Đại tá Ben Wyatt chỉ huy di chuyển quá chậm (18 [[hải lý]] - 33 &nbsp;km/giờ) nên Giffen không thể theo kịp lịch trình, do đó ông phải buộc lòng để các tàu sân bay hộ tống này lại phía sau với hai khu trục hạm vào lúc 14 giờ ngày 29 tháng 1 và bám theo lịch trình với lực lượng còn lại ở vận tốc 24 hải lý (44 &nbsp;km/giờ).<ref name="Morison354">{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=354}}.</ref>
 
Lo ngại về khả năng các tàu ngầm Nhật tấn công theo như cảnh báo của tình báo Đồng Minh, Giffen sắp xếp các tuần dương hạm và khu trục hạm theo đội hình chống tàu ngầm chứ không phải đội hình chống không kích. Các tuần dương hạm di chuyển song song theo hai hàng dọc, cách nhau mỗi chiếc 2,3 &nbsp;km (2.500 dặm) với lần lượt ''Wichita'', ''Chicago'' và ''Louisville'' bên phải còn ''Montpelier'', ''Cleveland'' và ''Columbia'' bên trái. Sáu khu trục hạm tạo thành một hình bán nguyệt đường kính 3,2 &nbsp;km (2 dặm) phía trước đoàn tuần dương hạm.<ref name="guadalcanal578"/>
 
Các tàu ngầm Nhật (hoặc [[thủy phi cơ]]) đã phát hiện lực lượng của Giffen trên đường đi và gửi báo cáo về tổng hành dinh hải quân.<ref name="Morison354"/><ref name="Osamu Tagaya 2001 66">{{harvnb|Osamu Tagaya|2001|pp=66}}.</ref> Chiều ngày 29 tháng 1, theo báo cáo của các tàu ngầm, 16 oanh tạc cơ [[Mitsubishi G4M]] "Betty" (thuộc Liên đoàn Bay 705) và [[Mitsubishi G3M]] "Nell" (thuộc Liên đoàn Bay 701) trang bị [[ngư lôi]] cất cánh từ Rabaul tấn công đoàn tàu của Giffen. Trên đường đi, một chiếc G3M gặp vấn đề động cơ phải quay về. Chỉ huy Liên đoàn 705 là Đại úy Nakamura Tomō còn chỉ huy Liên đoàn 701 là Thiếu tá Hagai Joji.<ref name= "guadalcanal578"/><ref>{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=354-355}}; {{harvnb|Osamu Tagaya|2001|pp=66}}.</ref>
 
=== Ngày 29 tháng 1 ===
[[File:RennellBattleMap.jpg|thumb|left|Mũi tên màu đỏ thể hiện cuộc không kích của các oanh tạc cơ Nhật còn mũi tên màu đen là Lực lượng đặc nhiệm 18 đang ở vị trí giữa đảo Rennell và Guadalcanal đêm 29 tháng 1 năm 1943]]
Khi mặt trời lặn, TF 18 hướng về phía tây bắc. Ở vị trí 80 &nbsp;km (50 dặm) phía bắc đảo Rennell và 260 &nbsp;km (160 dặm) phía nam Guadalcanal, nhiều chiến hạm của Giffen bằng [[radar]] đã phát hiện nhiều máy bay không xác định cách đội hình 97 &nbsp;km (60 dặm) về phía tây. Do phải giữ im lặng vô tuyến, Giffen đã không đưa bất kỳ mệnh lệnh nào về các đối tượng không xác định đó.<ref name="Crenshaw62"/> Khi mặt trời lặn, các máy bay tuần tra của TF 18 từ các tàu sân bay hộ tống buộc phải hạ cánh do trời tối, khiến cho các tàu chiến của Giffen không còn được bảo vệ ở trên không.<ref name="Samuel Eliot Morison 1958 355">{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=355}}.</ref>
 
Các máy bay mà radar bắt được tín hiệu chính là 31 [[oanh tạc cơ phóng ngư lôi]] Nhật Bản, lúc này đang tập trung ở phía nam TF 18 để có thể tấn công từ hướng đông và bằng cách này giấu mình trong màn đêm còn ngược lại các chiến hạm của Giffen lại lộ rõ hình dạng qua hoàng hôn của chân trời phía tây. Các máy bay của Liên đoàn 705 tấn công trước tiên vào lúc 19 giờ 19 phút tuy nhiên tất cả ngư lôi phóng ra đều không trúng đích mà còn mất một máy bay bởi hỏa lực phòng không từ các tàu chiến của Giffen.<ref name= "guadalcanal579">{{harvnb|Frank O. Hough|pp=579}}; {{harvnb|Osamu Tagaya|2001|pp=66}}.</ref>
Dòng 50:
Tin rằng cuộc tấn công đã kết thúc, Giffen lệnh cho các tàu chiến của mình bỏ lối di chuyển zigzag và tiếp tục hướng về Guadalcanal với lộ trình và vận tốc như cũ. Trong khi đó, một [[trinh sát cơ]] Nhật Bản bắt đầu thả pháo sáng và phao đèn để đánh dấu lộ trình và vận tốc của TF 18 cho các oanh tạc cơ của Hagai có thể tấn công.<ref name= "Crenshaw63">{{harvnb|Russell Sydnor Crenshaw|1998|p=63}}; {{harvnb|Osamu Tagaya|2001|pp=66}}.</ref>
 
Lúc 19 giờ 38 phút, các máy bay của Liên đoàn 701 phóng hai ngư lôi đánh trúng tuần dương hạm ''Chicago'', làm cho nó bị thương nặng và sau đó là dừng bất động cộng với ngập nước nặng. Một trái ngư lôi khác trúng tuần dương hạm ''Wichita'' nhưng không phát nổ. Đổi lại phía Nhật mất hai máy bay do hỏa lực phòng không và Liên đoàn trưởng Hagai (thuộc một trong hai máy bay trên) cũng tử trận trong cuộc tấn công này. Lúc 20 giờ 8 phút, Giffen lệnh cho các tàu của mình xoay hướng, giảm vận tốc xuống còn 15 hải lý (28 &nbsp;km/giờ) và ngừng hỏa lực phòng không. Các máy bay Nhật Bản không còn có thể dựa vào ánh lửa đầu nòng pháo phòng không để phát hiện các tàu chiến nên rời khỏi khu vực vào lúc 23 giờ 55.<ref name="guadalcanal579Osamu Tagaya 2001 66"/><ref>{{harvnb|Osamu Tagaya|2001|ppname=66}}.<"guadalcanal579"/ref> Trong màn đêm, chiếc ''Louisville'' ra sức kéo chiếc ''Chicago'' rời khỏi khu vực trận đánh về hướng nam và được hộ tống bởi các chiến hạm còn lại của TF 18.<ref>{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=358-359}}.</ref>
 
=== Ngày 30 tháng 1 ===
Dòng 56:
Halsey ngay lập tức tiến hành các biện pháp để bảo vệ chiếc ''[[USS Chicago (CA-29)|Chicago]]'', lệnh cho các hàng không mẫu ham hộ tống luôn phải duy trì máy bay tuần tra, lực lượng đặc nhiệm ''Enterprise'' hỗ trợ cho việc tuần tra trên và đưa chiếc tàu dắt ''Navajo'' thay cho ''Louisville'' làm nhiệm vụ kéo ''Chicago'' về vào lúc 8 giờ.<ref name="Crenshaw63"/> Từ buổi sáng cho đến 14 giờ chiều, nhiều trinh sát cơ Nhật Bản đã tiếp cận TF 18. Mặc dù bị các máy bay tuần tra Hoa Kỳ đuổi đánh, các trinh sát cơ này cũng đã kịp ghi nhận và báo cáo lại vị trí của chiếc ''Chicago''. Lúc 12 giờ 15, một lực lượng gồm 11 oanh tạc cơ phóng ngư lôi của Liên đoàn bay 751 Nhật Bản, căn cứ tại [[Kavieng]] và bay ngang [[Buka]] đã được triển khai để tấn công chiếc tuần dương hạm đang bị thương. Một quan sát viên bờ biển người [[Úc]] tại quần đảo Solomon đã cảnh báo quân Hoa Kỳ về các oanh tạc cơ trên và ước tính khi chúng đến mục tiêu là 16 giờ. Tuy nhiên, Halsey thay vì giữ lực lượng mạnh bảo vệ ''Chicago'' đã lệnh cho các tuần dương hạm còn lại để chiếc ''Chicago'' ở lại phía sau và hướng về [[Efate]] tại [[New Hebrides]]. Các tàu chiến khởi hành lúc 15 giờ, chỉ để lại sáu khu trục hạm bảo vệ ''Chicago'' và ''Navajo''.<ref>{{harvnb|Frank O. Hough|pp=579-580}}; {{harvnb|Osamu Tagaya|2001|pp=66–67}}.</ref>
 
Vào lúc 15 giờ 40 phút, tàu sân bay ''Enterprise'' lúc này cách chiếc ''Chicago'' 69 &nbsp;km đã phóng mười chiến đấu cơ làm nhiệm vụ tuần tra quanh chiếc tuần dương hạm bị thương này. Bốn chiến đấu cơ trong quá trình tuần tra đã phát hiện và bắn rơi một chiếc oanh tạc cơ Nhật làm nhiệm vụ trinh sát. 14 phút sau, radar của ''Enterprise'' phát hiện ra dấu hiệu những chiếc oanh tạc cơ Nhật đang bay đến nên chiếc tàu sân bay này đã phóng lên thêm mười chiến đấu cơ nữa. Trong khi đó, các tàu sân bay hộ tống gặp vấn đề trong việc cất cánh các máy bay nên đã không tham gia vào trận đánh cho đến tận khi nó kết thúc.<ref>{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=360}}.</ref>
[[File:RennellBattleMap2.jpg|thumb|left|Mũi tên màu đỏ thể hiện cuộc không kích của các oanh tạc cơ Nhật vào chiếc ''Chicago'' (vòng tròn màu vàng) sáng ngày 30 tháng 1 năm 1943. Mũi tên màu đen là các chiến đấu cơ của tàu sân bay Hoa Kỳ.]]
 
Ban đầu, các oanh tạc cơ Nhật dự tính tấn công ''Enterprise'' nhưng sau đó đã chuyển hướng sang ''Chicago'' khi bị sáu chiến đấu cơ tuần tra đuổi đánh. Một số oanh tạc cơ khác của Liên đoàn 751 bị bốn chiến đấu cơ Hoa Kỳ và hỏa lực phòng không từ các khu trục hạm quanh ''Chicago'' chặn đánh. Hai oanh tạc cơ bị bắn hạ khi chưa kịp làm gì, sáu chiếc khác cùng số phận sau đó nhưng đã kịp phóng ngư lôi. Trong bốn chiếc oanh tạc cơ G4M còn lại, một chiếc mất một động cơ nhưng vẫn quay về được căn cứ, một chiếc hạ cánh tại [[Munda (Quần đảo Solomon)|Munda, New Georgia]] và ba chiếc còn lại đến sân bay Ballale tại [[quần đảo Shortland]].<ref>{{harvnb|Frank O. Hough|pp=580-581}}; {{harvnb|Osamu Tagaya|2001|pp=67}}.</ref>
 
Một ngư lôi đánh trúng buồng động cơ trước của khu trục hạm USS [[USS La Vallette_Vallette (DD-448)|''La Vallette'']], giết chết 22 thủy thủ và làm chiếc tàu bị thương nặng. ''Chicago'' bị trúng đến bốn ngư lôi, một quả nơi cầu tàu và ba quả vào khu vực động cơ. Hạm trưởng Ralph O. Davis của ''Chicago'' ra lệnh bỏ tàu, chiếc tàu chìm phần đuôi trước khi chìm hoàn toàn 20 phút sau đó, kéo theo cái chết của 62 thủy thủ.<ref>{{harvnb|Frank O. Hough|pp=581}}.</ref> ''Navajo'' và các khu trục hạm khác đã cứu sống được 1.049 người từ chiếc ''Chicago''.<ref>{{harvnb|Russell Sydnor Crenshaw|1998|p=64-65}}.</ref> Các oanh tạc cơ Nhật dự tính tấn công lần cuối cùng nhưng không tìm được vị trí các tàu Hoa Kỳ. Toàn bộ chiến hạm còn lại của TF 18 trong đó có ''La Vallette'' được chiếc ''Navajo'' kéo về cảng Espiritu Santo mà không gặp sự cố gì thêm. Khu trục hạm ''La&nbsp;Vallette'' được sữasửa chữa cho đến tận ngày 6 tháng 8 năm 1943.<ref>{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=363}}. ''Dictionary of American Fighting Ships'', [http://www.history.navy.mil/danfs/l1/la_vallette-ii.htm]</ref>
 
== Kết quả ==
Dòng 72:
== Chú thích ==
=== Ghi chú ===
'''a.''' {{Note_label|A|a|none}} Kusaka là chỉ huy trưởng Không Hạm đội 11, đóng tại Rabaul, bao gồm các Liên đoàn bay 701, 705 và 751 đã tham gia vào trận đánh.<br />'''b.''' {{Note_label|B|b|none}} Mặc dù ba tàu sân bay Hoa Kỳ mang theo nhiều hơn 14 chiến đấu cơ, tuy nhiên 14 là số chiến đấu cơ thực sự tham gia vào trận đánh.<br /> '''c.''' {{Note_label|C|c|none}} Cuộc tấn công của các máy bay Nhật vào hai ngày 29 và 30 tháng 1 có thể đã làm chết một thủy thủ trên tuần dương hạm ''Montpelier''.<ref>{{harvnb| name="Samuel Eliot Morison| 1958|p= 355}}.<"/ref><br />'''d.''' {{Note_label|D|d|none}} Thiệt hại nhân lực của quân Nhật trong trận này ước tính dựa vào số người chết trong mười hai oanh tạc cơ bị bắn hạ mà mỗi oanh tạc cơ Mitsubishi G4M và Mitsubishi G3M thường có số lượng phi hành đoàn từ năm đến bảy người.
=== Trích dẫn ===
{{Tham khảo|2}}
Dòng 96:
{{coord|11|25|S|160|56|E |region:SB_type:isle |display=title}}
{{các chủ đề|Úc|Lịch sử|Nhật Bản|Hoa Kỳ|Quân sự|Chiến tranh thế giới thứ hai}}
 
{{Sao chọn lọc}}
 
{{DEFAULTSORT:Rennell, Trận chiến đảo}}
[[Thể loại:Xung đột năm 1943]]
[[Thể loại:Chiến dịch Guadalcanal]]
 
{{Sao chọn lọc}}
{{Link FA|en}}