Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Camp Nou”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: sữa chữa → sửa chữa (2), → (145) using AWB |
n clean up, replaced: sữa → sửa (2), → (71) using AWB |
||
Dòng 1:
{{infobox stadium
| fullname
| image
| caption
| former_names
| location
| coordinates
| built
| opened
| renovated
| expanded
| closed
| owner
| operator
| surface
| scoreboard
| estimated_cost
| suites
| architect
| project_manager
| structural engineer =
| services engineer
| general_contractor =
| main_contractors
| capacity
| Suites
| dimensions
| acreage
| tenants
[[Tập tin:Noucamp2.gif|nhỏ|phải|300px|Sơ đồ sân Camp Nou]]
Dòng 62:
== Giai đoạn hiện nay ==
[[File:Camp Nou, FC Barcelona - FC Bayern Munich, 2013 - 16.JPG|thumb|right|Barcelona thi đấu với [[FC Bayern Munich|Bayern Munich]] tại sân vận động trong khuôn khổ [[2012–13 UEFA Champions League|UEFA Champions League 2013]]]]
Giai đoạn 1993-1994 bắt đầu cho một chuỗi ngày dài tu
Sân Camp Nou là một trong những sân bóng đẹp và kỳ vĩ nhất châu Âu, là một trong không nhiều sân được dán nhãn năm sao của [[Liên đoàn bóng đá châu Âu|UEFA]]. Với sức chứa hiện nay 98.934 chỗ Camp Nou vẫn là sân vận động lớn nhất [[châu Âu]] hiện nay. Sân là nơi tổ chức trận chung kết [[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|Champions League]] khó quên trong lịch sử giữa [[Manchester United F.C.]] và [[FC Bayern München]] năm 1999 (2-1). Trận chung kết này được tổ chức cũng nằm trong kế họach tôn vinh CLB trong năm kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của [[F.C. Barcelona|Barça]], trong đó bao gồm trận giao hữu giữa Barça và [[Brasil]] ngày 28 tháng 4 (2-2). Sau kỷ nguyên Johan Cruyff, Barça tiếp tục gặt hái những thành công với HLV Bobby Robson (vô địch [[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|Liga]] 1998, cúp quốc gia 1997 và 1998, cúp C2 và siêu cúp châu Âu 1997) và với HLV Louis Van Gaal (vô địch [[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|Liga]] 1999). Ngày nay một "Dream Team" mới của Barça đã ra đời với Edmilson, Puyol, Deco, Xavi, Van Bronckhorst, Ronaldinho, Eto'o, Messi... họ đã giành được hai chức vô địch [[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|Liga]] liên tiếp năm 2005, 2006, và mới đây nhất là chiếc cúp [[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|Champions League]] thứ hai trong lịch sử CLB vào ngày 17 tháng 5 năm 2006 tại [[Paris]] (thắng [[Arsenal F.C.|Arsenal]] 2-1). Không những vậy "Dream Team" mới của Barça còn làm được hơn thế khi liên tiếp vô địch [[La Liga]] từ 2009-2011 và đặc biệt là cú ăn sáu vĩ đại năm 2009. Năm 2011 Barca tiếp tục chu kì thành công khi vô địch Champions League lần thứ 4 sau khi đánh bại đội bóng đến từ Anh M.U và được xem là đội bóng mạnh nhất thế giới ở thời điểm hiện tại.
Dòng 68:
==Các hoạt động khác==
{{Panorama
|image
|height = 240
|width
|alt
|caption = <center>Một [[paranoma|góc chụp rộng]] tại sân vận động vào [[tháng 1]] năm [[2011]]</center>
}}
|