Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lagash”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
GHA-WDAS (thảo luận | đóng góp)
n Bot: dọn dẹp chung, replaced: {{Reflist → {{tham khảo, [[File: → [[Tập tin: (3), {{cite book → {{chú thích sách, {{Link GA → {{liên kết bài chất lượng tốt using AWB
Dòng 44:
|notes =
}}
[[FileTập tin:Hammurabi's Babylonia 1.svg|300px|right|thumb|Vào thời của [[Hammurabi]], Lagash nằm gần bờ biển của [[vịnh Ba Tư]].]]
[[FileTập tin:Vase Entemena Louvre AO2674.jpg|thumb|Một cái bình khắc [[chữ hình nêm]] của [[Entemena]] ([[Louvre]])]]
[[FileTập tin:Gudea of Lagash Girsu.jpg|thumb|[[Gudea]] của Lagash, tượng bằng diorit được tìm thấy tại [[Girsu]] ([[Louvre]])]]
 
'''Lagash'''{{#tag:ref|[[Tiếng Sumer|Sumer]]: ''Lagaš<sup>ki</sup>''; chữ hình nêm [[tốc ký]]: {{cuneiform|&#x12262;&#x12053;&#x121B7;&#x121A0;}}, [NU<sub>11</sub>.BUR].LA<sup>KI</sup><ref>[http://etcsl.orinst.ox.ac.uk/cgi-bin/etcsl.cgi?searchword=l=lagac%20t=SN&charenc=gcirc The Electronic Text Corpus of Sumerian Literature]</ref> hoặc [ŠIR.BUR].LA<sup>KI</sup>, "nhà kho;"<ref>''The Pennsylvania Sumerian Dictionary.'' "[http://psd.museum.upenn.edu/epsd/epsd/e3246.html Lagash]." Accessed 19 Dec 2010.</ref> [[Tiếng Akkad|Akkad]]: ''Nakamtu'';<ref>[http://psd.museum.upenn.edu/epsd/epsd/e3246.html Electronic Pennsylvania Sumerian Dictionary (EPSD)]</ref> ngày nay là '''Tell al-Hiba''', [[Dhi Qar]], [[Iraq]]|group=}}{{IPAc-en|ˈ|l|eɪ|ɡ|æ|ʃ}} là một thành phố cổ nằm phía tây bắc ngã ba của sông [[Euphrates]] và [[Tigris]] và phía đông [[Uruk]], khoảng 22 &nbsp;km (14 dặm) về phía đông của thành phố ngày nay là [[Ash Shatrah]], [[Iraq]]. Lagash là một trong những thành phố lâu đời nhất ở vùng [[Cận Đông cổ đại]]. Vị trí cổ đại của Surghul/Nina là khoảng 6 dặm (9,7 &nbsp;km). [[Girsu]] gần đó, khoảng 25 &nbsp;km (16 dặm) về phía tây bắc của Al-Hiba, là trung tâm tôn giáo của thị quốc Lagash. Đền thờ của Lagash là [[E (đền thờ)|E]]-Ninnu, dành riêng cho thần [[Ningirsu]].
 
==Lịch sử==
Từ những dòng chữ khắc được tìm thấy ở Girsu như các [[trụ đá Gudea]] đã cho thấy Lagash là một thành phố quan trọng của người [[Sumer]] vào cuối thiên niên kỷ thứ 3 TCN. Thành phố thời điểm đó được cai trị bởi vị vua độc lập, [[Ur-Nanshe]] (thế kỷ 24 TCN) và người kế nhiệm ông đã tham gia vào những trận giao tranh với người [[Elam]] ở phía đông và các vua "Kienĝir" và Kish ở phía bắc. Một số công trình xa xưa có từ trước cuộc chinh phục của người Akkad cũng rất thú vị, đặc biệt là [[Tấm bia Kền kền]] của Eannatum và cái bình bạc lớn của Entemena được trang trí với con vật linh thiêng của Ningirsu là Anzu: một con đại bàng đầu sư tử với đôi cánh dang ra, dang quắp lấy một con sư tử trong mỗi móng vuốt. Với cuộc chinh phục của người [[Đế quốc Akkad|Akkad]] mà Lagash đã đánh mất nền độc lập, người cai trị hoặc ensi của Lagash trở thành một chư hầu của [[Sargon của Akkad|Sargon xứ Akkad]] và những người kế nhiệm ông; nhưng Lagash tiếp tục là một thành phố có nhiều tầm quan trọng và trên hết là một trung tâm phát triển nghệ thuật.
 
Sau khi nhà nước của Sargon sụp đổ, Lagash lại phát triển mạnh dưới các đời vua độc lập (Ensis), Ur-Bau và [[Gudea]] và có sự giao thiệp thương mại rộng rãi với nước xa xôi. Theo sử liệu về mình, Gudea đưa cây hương từ [[Amanus]] và dãy núi [[Liban]] ở [[Syria]], [[điorit]] từ miền đông Saudi, đồng và vàng từ miền trung và miền nam [[Ả Rập]], trong khi quân đội của ông đã tham gia vào các trận chiến với người [[Elam]] ở phía đông. Triều đại của ông có dấu ấn đặc trưng vì là thời đại phát triển nghệ thuật. Thậm chí một ý tưởng khá tốt về những gì trông giống như Gudea, kể từ khi ông đặt trong các đền thờ trong thành phố nhiều bức tượng hoặc tượng thần miêu tả bản thân với hiện thực sống động như thật ([[Tượng Gudea]]). Vào thời của Gudea, thủ đô của Lagash thực sự nằm ở Girsu. Vương quốc bao phủ một diện tích khoảng 1.600 &nbsp;km vuông (620 sq mi). Nó bao gồm 17 thành phố lớn, tám thị trấn huyện lỵ, và nhiều làng mạc (khoảng 40 được gọi theo tên). Theo một ước tính, Lagash là thành phố lớn nhất thế giới từ khoảng 2075 đến 2030 TCN.<ref>Tertius Chandler, Four Thousand Years of Urban Growth: An Historical Census, Edwin Mellen Press, 1987, ISBN 0-88946-207-0</ref>
 
Ngay sau thời kỳ của Gudea, Lagash đã bị gộp vào nhà nước Ur III như là một trong những tỉnh hàng đầu của nó.<ref>Joan Goodnick Westenholz, Kaku of Ur and Kaku of Lagash, [[Journal of Near Eastern Studies]], vol. 43, no. 4, pp. 339-342, 1984</ref> Có một số thông tin về khu vực này trong thời kỳ Cổ Babylon. Sau đó nó dường như đã mất đi tầm quan trọng thiết yếu và biến mất trong một khoảng thời gian dài cho tới khi việc xây dựng các pháo đài của nhà [[Seleukos]] được đề cập, khi nó dường như đã trở thành một phần của Vương quốc [[Characene]] của [[Hy Lạp]].
 
===Xung đột với Umma===
Vào khoảng năm 2450 TCN, Lagash và thành phố láng giềng [[Umma]] có đánh lẫn nhau sau một cuộc tranh chấp biên giới. Theo như mô tả trong [[Tấm bia Kền kền]] thì vị vua hiện tại của Lagash là [[Eannatum]], lấy cảm hứng từ thần bảo trợ của thành phố [[Ningirsu]], bắt đầu mang quân đánh bại thành phố gần đó. Những chi tiết ban đầu của cuộc chiến vẫn chưa rõ ràng, nhưng tấm bia có thể miêu tả một vài chi tiết mơ hồ về sự kiện này. Theo những hình khắc của tấm bia thì khi hai bên gặp nhau trên chiến trường, Eannatum đã bước xuống cỗ chiến xa của mình và dẫn đầu hàng quân tiến lên. Sau khi hạ thấp những ngọn giáo, quân Lagash liền xông vào hàng ngũ quân Umma theo [[Đội hình phalanx|đội hình Phalanx]] dày đặc. Sau một cuộc đụng độ ngắn ngủi, Eannatum và quân của ông đã giành được chiến thắng trước đội quân của Umma. Dù bị tên bắn trúng mắt, vua của Lagash vẫn còn sống để tận hưởng chiến thắng của quân mình. Cuộc chiến này là một trong những trận đánh có tổ chức sớm nhất được biết đến với giới học giả và sử gia.<ref name=Battle>{{citechú bookthích sách|last=Grant|first=R.G.|title=Battle|year=2005|publisher=Dorling Kindersley Limited|location=Great Britain|isbn=978-1-74033-593-5}}</ref>
 
===Các triều đại của Lagash===
Dòng 125:
 
==Khảo cổ học==
Lagash là một trong những gò khảo cổ học lớn nhất trong khu vực, đo khoảng 2 1 dặm (3,2 1,6 &nbsp;km). Ước tính diện tích của nó nằm trong khoảng 400-600 ha (990 đến 1,480 mẫu Anh). Địa điểm này được chia bởi nền của một con kênh/sông, chạy theo đường chéo qua gò. Di chỉ này lần đầu tiên được [[Robert Koldewey]] khai quật trong sáu tuần vào năm 1887.<ref>Robert Koldewey, Die altbabylonischen Graber in Surghul und El-Hibba, Zeitschrift fur Assyriologie, vol. 2, pp. 403-430, 1887</ref> Nó còn được kiểm tra trong một đợt khảo sát khu vực của [[Thorkild Jacobsen]] và Fuad Safar vào năm 1953, việc tìm kiếm bằng chứng đầu tiên nhận dạng tên gọi của nó là Lagash. Chính thể chủ yếu trong vùng al-Hiba và Tello trước đây được xác định là ŠIR.BUR.LA ('''''Shirpurla''''').<ref>Amiaud, Arthur. "[http://www.sacred-texts.com/ane/rp/rp201/rp20112.htm The Inscriptions of Telloh]." ''Records of the Past,'' 2nd Ed. Vol. I. Ed. by A. H. Sayce, 1888. Accessed 19 Dec 2010. M. Amiaud notes that a Mr. Pinches (in his ''Guide to the Kouyunjik Gallery'') contended ŠIR.BUR.LA<sup>ki</sup> could be a logographic representation of "Lagash," but inconclusively.</ref> Tell Al-Hiba lại được khám phá một lần nữa trong năm đợt khai quật từ năm 1968 đến năm 1976 bởi một nhóm từ [[Metropolitan Museum of Art|Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan]] và [[Institute of Fine Arts|Viện Mỹ thuật]] của [[Đại học New York]]. Nhóm nghiên cứu dưới sự dẫn đầu của Vaughn E. Crawford và bao gồm cả Donald P. Hansen và Robert D. Biggs. Mục tiêu chính là khai quật ngôi đền Ibgal của [[Inanna]] và đền thờ Bagara của Ningirsu, cũng như một khu vực hành chính có liên quan.<ref>Donald P. Hansen, Al-Hiba, 1968–1969: A Preliminary Report, Artibus Asiae, vol 32, no. 4, pp. 243-258, 1970</ref><ref>Donald P. Hansen, Al-Hiba, 1970–1971: A Preliminary Report, Artibus Asiae, vol. 35 no. 1-2, pp. 62-70, 1973</ref><ref>Donald P. Hansen, Al-Hiba: A summary of four seasons of excavation: 1968–1976, Sumer, vol. 34, pp. 72-85, 1978</ref><ref>Vaughn E. Crawford, Inscriptions from Lagash, Season Four, 1975-76, Journal of Cuneiform Studies, vol. 29, no. 4, pp. 189-222, 1977</ref>
 
Nhóm nghiên cứu quay trở lại 12 năm sau đó vào năm 1990 cho một đợt khai quật cuối cùng do DP Hansen tiến hành. Công việc chủ yếu liên quan đến khu vực liền kề với một ngôi đền vẫn chưa được khai quật. Kết quả của hoạt động khai quật năm nay dường như chưa được công bố.<ref>Excavations in Iraq 1989–1990, Iraq, vol 53, pp. 169-182, 1991</ref>
 
==Xem thêm==
Dòng 135:
 
==Chú thích==
{{Reflisttham khảo}}
 
==Tham khảo==
Dòng 148:
*[http://oi.uchicago.edu/gallery/asp_meso_lagash/ Lagash excavation site photographs at the Oriental Institute]
*[http://cdli.ucla.edu/search/result.pt?result_format=list&size=100&-op_provenience=ct&provenience=lagash Lagash Digital Tablets at CDLI]
 
{{liên kết bài chất lượng tốt|fr}}
 
[[Thể loại:Thành phố Sumer]]
Hàng 154 ⟶ 156:
[[Thể loại:Tỉnh Dhi Qar]]
[[Thể loại:Những nơi đông dân cư cũ ở Iraq]]
{{Link GA|fr}}