Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Girsu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Alphama Tool
Dòng 1:
{{coord|31|33|43.3|N|46|10|39.3|E|display=title}}
'''Girsu''' ([[chữ hình nêm]]:?; [[Tiếng Sumer|Sumer]]:Ĝirsu; [[Tiếng Akkad|Akkad]]:''?'') ngày nay là '''Tell Telloh''', [[tỉnh Dhi Qar]], [[Iraq]], và là một thành phố của người [[Sumer]] cổ đại, nằm ​​khoảng 25  km (16 dặm) về phía tây bắc của [[Lagash]]. Do [[âm mũi]] đầu ŋ, việc phiên âm thành Ĝirsu thường được đánh vần thành '''Ngirsu''' (còn: '''G̃irsu''', '''Girsu''', '''Jirsu''') để tránh nhầm lẫn.
 
==Lịch sử==
Dòng 6:
Girsu có thể đã có cư dân sinh sống trong [[thời kỳ Ubaid]] (5300-4800 TCN), nhưng mức độ quan trọng của hoạt động bắt đầu vào thời [[Tiền Triều đại]] (2900-2335 TCN). Vào thời của [[Gudea]] trong suốt [[Lagash|Triều đại thứ hai của Lagash]], Girsu trở thành thủ đô của vương quốc Lagash và tiếp tục là trung tâm tôn giáo của nó sau khi quyền lực chính trị đã chuyển sang thành phố Lagash.<ref>Dietz Otto Edzard, Gudea and His Dynasty. University of Toronto Press, 1997, ISBN 0-8020-4187-6</ref> Trong suốt thời kỳ [[Triều đại thứ ba của Ur|Ur III]], Girsu là một trung tâm hành chính chính quan trọng cho đế quốc. Sau sự sụp đổ của [[Ur]], Girsu giảm dần tầm quan trọng, nhưng vẫn còn cư dân sinh sống cho tới khoảng năm 200 TCN.
 
==Khảo cổ học==
Telloh là di chỉ Sumer đầu tiên được khai quật rộng rãi, lần đầu dưới thời phó lãnh sự [[Pháp]] tại [[Basra]] là [[Ernest de Sarzec]] từ năm 1877–1900, tiếp theo là người kế nhiệm ông [[Gaston Cros]] từ năm 1903–1909.<ref>Découvertes en Chaldée, E. de Sarzec, Paris, Leroux, 1884–1893</ref><ref>[http://www.archive.org/download/nouvellesfouille00crosuoft/nouvellesfouille00crosuoft.pdf Nouvelles fouilles de Tello, Gaston Cros, Paris, 1910]</ref> Các cuộc khai quật tiếp tục dưới thời Abbé Henri de Genouillac vào năm 1929–1931 và thời André Parrot vào năm 1931–1933.<ref>Fouilles de Telloh I: Epoques presargoniques, Abbé Henri de Genouillac, Paris, 1934</ref><ref>Fouilles de Telloh II: Epoques d'Ur III Dynastie et de Larsa, Abbé Henri de Genouillac, Paris, 1936</ref><ref>A. Parrot, ''Tello: vingt campagnes de fouilles 1877–1933'', Paris, A. Michel,1948</ref> Đó là tại vì ở Girsu mà người ta đã tìm thấy các mảnh vỡ của [[Bia Kền kền]]. Khu di chỉ này đã phải chịu đựng những cuộc khai quật theo tiêu chuẩn nghèo nàn và cũng từ những đợt khai quật bất hợp pháp. Khoảng 50.000 bảng chữ hình nêm đã được lấy lại từ khu di chỉ này.<ref>[http://www.etana.org/coretexts/20020.pdf Telloh Tablets at Haverford Library]</ref>
 
Dòng 19:
 
==Tham khảo==
*Harriet Crawford, The Construction Inférieure at Tello. A Reassessment, Iraq, vol. 49, pp.&nbsp; 71–76, 1987
*Benjamin R. Foster, The Sargonic Victory Stele from Telloh, Iraq, Vol. 47, pp.&nbsp; 15–30, 1985
*Claudia E. Suter, A Shulgi Statuette from Tello, Journal of Cuneiform Studies, vol. 43/45, pp.&nbsp; 63–70, (1991–1993)
 
==Liên kết ngoài==