Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bàng Đức Công”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n General Fixes
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 14:
 
==Tham khảo==
* Khuyết[[Tập danhTạc Xỉ]] – [https://zh.wikisource.org/zh/襄陽記 Tương Dương ký]
 
==Xem thêm==
Dòng 20:
 
==Khảo chứng==
# {{note|1}} [[Tống thư]] '''quyển 28, liệt truyện 25 – Vũ nhị vương truyện''': Sử thần nói rằng: "Người Tương Dương là Bàng Công nói với Lưu Biểu rằng: "Bằng như [[Chu Công]] cùng Quản, Thái ở nhà tranh, ăn canh rau lê, hoắc, há có cái nạn như thế." Ôi bởi lẽ anh em <ref>Nguyên văn: 天倫由子, thiên luân do tử. '''Thiên''' (nhiên) '''luân''' (thứ): thứ tự do trời định, chỉ anh em; '''do tử''': nghĩa là lý do</ref>, vô cùng thân thiết <ref>Nguyên văn: 共气分形, '''cộng khí phân hình'''. Thành ngữ này được được dùng là 分形同气, '''phân hình đồng khí''', có xuất xứ từ '''[[Lữ thị xuân thu]] – Tinh thông''': "父母之于子也, 子之于父母也, 一体而两分, 同气而异息." (Phụ mẫu chi vu tử dã, tử chi vu phụ mẫu dã, nhất thể nhi lưỡng phân, đồng khí nhi dị tức. Tạm dịch: ''Cha mẹ ở trong con cái, con cái ở trong cha mẹ, một thể mà 2 phần, cùng hơi mà khác nhịp.'') Ý nói về hình thể bên ngoài đều khác biệt, nhưng hơi thở bên trong thì tương thông. HìnhThành dungngữ này dùng cho quan hệ vô cùng mật thiết giữa cha mẹ và con cái. Sau này cũng dùng cho quan hệ anh em. VD: [[Tào Thực]] – '''Cầu tự thí biểu''': "而臣敢陈闻于陛下者, 诚与国分形同气, 忧患共之者也." (Nhi thần cảm trần văn vu bệ hạ giả, thành dữ quốc phân hình đồng khí, ưu hoạn cộng chi giả dã. Tạm dịch: Còn thần dám trần văn ở bệ hạ ấy, thành tâm cùng nước nhà phân hình đồng khí, chung lòng lo lắng vậy.)</ref>, cái phận sủng ái dẫu giống nhau, cái tình phú quý thời khác nhau vậy. Nhớ lại lời nói của '''Thượng Trường''', để mà thở dài.
# {{note|2}} [[Lịch Đạo Nguyên]] – [[Thủy kinh chú]], '''Miện Thủy 2''': Giữa Miện Thủy có Ngư Lương châu, là nơi ở của Bàng Đức Công. (Bàng) Sĩ Nguyên sống ở phía nam sông Hán, tại Nam Bạch Sa mà người đời gọi là vùng đất làm ra Bạch Sa khúc vậy. Tư Mã Đức Tháo sống ở phía bắc Trạch Châu, láng giềng gần gũi <ref>Nguyên văn: 望衡对宇, vọng hành đối vũ. Tức'''Vọng hành''' nghĩasângần trướcgũi, VD: Kỷ Quân - Duyệt vi thảo đường bút ký, hòe tây tạp chí 3: 甲与乙, 望衡而居, 皆宦裔也, Hán Việt: Giáp dữ ất ,vọng hành nhi cư, giai hoạn duệ dã. Tạm dịch: Giáp và ất, ở bên cạnh nhau, đều là hậu duệ hạ nhân vậy. '''Vũ''' là phần nhà dưới mái hiên, đôi khi nghĩa là nhà; '''Đối vũ''' nghĩa là 2 ngôi nhà đối diện nhau. '''Vọng hành đối vũ''' là thành ngữ hình dung mối quan hệ láng giềng gần gũi</ref>, hoan tình tự tiếp, bơi thuyền sang sông <ref>Nguyên văn: 褰裳, Hán Việt: '''khiên''' (vén) '''thường''' (xiêm áo) là phiếm từ chỉ hành động sang sông. VD: [[Kinh Thi]], '''Trịnh phong, Khiên thường''': "Tử Huệ nhớ ta, vén xiêm lội (sông) Trăn." [[Cát Hồng]] – [[Bão Phác Tử]], '''Quảng thí''': Vén xiêm để vượt qua thương hải, đứng ngóng mà nhảy lên cửu huyền.</ref>, tùy tiện <ref>Nguyên văn: 率尔, Hán Việt: '''suấtsoái nhĩ''', là động từ mô tả dáng vẻ không bị ràng buộc gì. VD: [[Tấn thư]], '''Văn uyển truyện, [[Viên Hoành]]''': "[[Tạ Thượng]] khi trấn Ngưu Chử, đêm thu nhân trăng sáng, soái nhĩ (tùy tiện) cùng tả hữu vi phục bơi thuyền trên [[Trường Giang]]</ref> sướng thích <ref>Nguyên văn: 休畅, Hán Việt: hưu sướng</ref>.
# {{note|3}} '''Tương Dương ký''': Bàng Đức Công là người Tương Dương. Sống trên Miện Thủy ở phía nam Hiện Sơn, chưa từng vào thành phủ. Cung canh điền lý, phu thê đãi nhau như tân (khách), nghỉ ngơi thời chánh cân (khăn) đoan tọa (ngồi), cầm (đàn) thư (sách) tự vui, thấy sắc mặt ông nghiêm túc.
# {{note|4}} '''Tương Dương ký''': Gia Cát Khổng Minh là Ngọa Long, Bàng Sĩ Nguyên là Phượng Sồ, Tư Mã Đức Tháo là Thủy Kính, đều là lời của Bàng Đức Công vậy.
Dòng 28:
# {{note|7}} '''Tương Dương ký''': Khổng Minh mỗi lần đến nhà ông, một mình vái lạy dưới sàng, Đức Công không yêu cầu dừng lại ngay.
# {{note|8}} '''Tương Dương ký''': Thống là tòng tử của Đức Công, thiếu thời chưa được biết được, duy Đức Công trọng ông, năm 18 tuổi, sai đi gặp Đức Tháo. Đức Tháo cùng (Thống) nói chuyện, xong thì than rằng: "Đức Công quả là biết người, đây thực là thịnh đức vậy!"
# {{note|9}} '''Tương Dương ký''': Kinh Châu mục Lưu Biểu mấy lần mời mọc, không thể khuất. Bèn tự đi thăm hỏi, nói với Công rằng: "Bảo toàn một tấm thân, sao bằng được bảo toàn thiên hạ?" Công cười nói: "Ổ hồng, hộc trên rừng cao, chiều có chỗ đậu; hang rùa, giải dưới suối sâu, đêm có chỗ nghỉ. Hành vi cử chỉ <ref>Nguyên văn: 趋舍行止, '''Xu xá hành chỉ'''. Xu xá (趋舍, Xu: đi, xá: dừng) và hành chỉ (行止, hành: đi, chỉ: dừng) đều có nghĩa là hành vi cử chỉ</ref> cũng là hang ổ của người ta vậy. Nhưng đều là nơi đậu nghỉ mà thôi, thiên hạ không có chỗ nào được bảo toàn." Vì (Công) buông cày trên gò, nên vợ con nhổ cỏ đằng trước. Biểu trỏ mà hỏi rằng: "Tiên sanh khổ cư trong mẫulàm ruộng mà không chịu nhận bổng lộc, rồithì đờivề sau lấy gì để lại cho con cháu đây?" Công đáp: "Người đời đều để lại những thứ gây nguy hại, nay chỉ mình tôi để lại những thứ giúp an lành. Dù thứ để lại bất đồng, nhưng chẳng phải là không có gì để lại." Biểu hỏi: "Là sao vậy?" Công đáp: "Xưa [[Đế Nghiêu|Nghiêu]], [[Đế Thuấn|Thuấn]] đem hải nội thụ bề tôi, mà không dựa vào tình cảm, bỏ con trai ở nơi thảo mãng, mà không tỏ vẻ thương xót. Đan Chu, Thương Quân vô cùng ngu xuẩn, mà được chết an lành <ref>Nguyên văn: 得全首领以没, Hán Việt: đắc toàn thủ lĩnh dĩ một, Tạm dịch: được toàn đầu (thủ) cổ (lĩnh) mà chết</ref>. [[Hạ Vũ|Vũ]], [[Thành Thang|Thang]] dù lấy bốn bể làm quý, lại đem nước cho riêng thân nhân, khiến [[Hạ Kiệt|Kiệt]] bị đày ra Nam Sào, [[Trụ Vương|Trụ]] bị treo đầu trên cờ [[Nhà Chu|Chu]], còn tông tộc của họ bị bắt giữ. (Vũ, Thang) sao không xét đến Đan Chu, Thương Quân? Hoàn cảnh của họ là nguyên nhân gây nguy hại vậy. Chu Công nhiếp chánh thiên hạ, thì giết anh trai. Giả sử anh em Chu Công ăn canh rau lê, hoắc, sống dưới mái lợp cỏ bồng, hao, há có cái hại như vậy à!" Biểu thở dài mà bỏ về.
# {{note|10}} '''Tương Dương ký''': Về sau dắt vợ con lên Lộc Môn sơn, nói thác là hái thuốc, người ta không biết ở đâu.