Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nai đỏ Tây Tạng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
n AlphamaEditor Tool, General Fixes
Dòng 15:
}}
'''Hươu đỏ Tây Tạng''' ([[danh pháp khoa học]]: ''Cervus canadensis wallichi'') còn được gọi là '''shou''' là một phân loài của loài [[hươu Bắc Mỹ]] là có nguồn gốc từ phía Nam của [[cao nguyên Tây Tạng]] và [[Bhutan]].
 
==Mô tả==
Chỉ có một vài cá thể hươu đực và không có cá thể hươu cái được [[khoa học]] biết đến. Một số trong số những mẫu vật của chúng đã được lưu giữ vào đầu thế kỷ 20 tại [[Luân Đôn]] - Thủ đô của [[nước Anh]] và một vài [[cá thể]] trong một [[sở thú]] nhỏ phía nam [[Lhasa]]. Chúng có kích thước tương đối lớn với chân ngắn và có cái mõm vuông khá lớn.
 
[[Lông]] chúng vào mùa đông là có màu sáng cát cát pha nâu, ngoại trừ khuôn mặt của chúng được phủ bởi lông xám. Nhưng bộ lông của chúng vào mùa hè thì có màu đá xám. Chúng lớn và có mông trắng trong đó có đuôi ngắn, chúng không có những sọc, vành tối giống như những con [[nai Tứ Xuyên]]. Những cá thể từ các phần phía đông của dãy núi này có một đường vạch dây lưng đen.<ref name="Geist">Valerius Geist: ''Deer of the World: Their Evolution, Behaviour, and Ecology'', Stackpole Books, Mechanisburg PA 1998, ISBN 0-8117-0496-3</ref>.
 
==Phạm vi==
Hươu đỏ Tây Tạng, cùng với [[hươu Tứ Xuyên]] và [[hươu đỏ Cam Túc]] là một hình thức nhóm phía nam của loài [[hươu Bắc Mỹ]].<ref name="Ludt">{{chú thích web|last = Ludt | first = Christian J. |coauthors = Wolf Schroeder, Oswald Rottmann, and Ralph Kuehn|
title = Mitochondrial DNA phylogeography of red deer (Cervus elaphus)|work= Molecular Phylogenetics and Evolution 31 (2004) 1064–1083| publisher = Elsevier | url = http://www.wzw.tum.de/wildbio/paper/cerphyl.pdf#search=%22Barbary%20red%20deer%22 | archiveurl = http://web.archive.org/web/20080309051303/http://www.wzw.tum.de/wildbio/paper/cerphyl.pdf#search=%22Barbary%20red%20deer%22 | archivedate = 2008-03-09| format= PDF|accessdate = 2007-06-04}}</ref>. Hươu sống ở miền bắc Bhutan và miền nam Tây Tạng, nơi nó được ghi nhận từ gần [[Thung lũng Chumbi]], [[Sikkim]] và từ hồ [[Mansarovar]].
 
Nó được cho là hoàn toàn tuyệt chủng cho đến khi một đàn nhỏ đã được phát hiện vào năm 1988 ở Bhutan và đông nam Tây Tạng. Phạm vi ban đầu có thể bao phủ nhiều thung lũng nhỏ của [[sông Brahmaputra]] ở phía bắc của [[dãy Himalaya]] ([[Sông Yarlung Tsangpo]]).<ref name="Geist"/>.
 
Một cuộc khảo sát vào năm [[1995]] đem tới một phát hiện thú vị, đó là một dân số khoảng 200 cá thể hươu đỏ Tây Tạng vẫn còn tồn tại ở phía bắc của sông Yarlung Tsangpo gần làng Zhenqi. Vì đây là dân số khả thi duy nhất được biết đến của hươu này, một kế hoạch thiết lập một khu bảo tồn để bảo vệ ở đây. Bằng chứng về một số quần khác đã được tìm thấy xung quanh sông Subansiri.<ref>George B. Schaller, Wulin Liua and Xiaoming Wang: ''Status of Tibet red deer''. Oryx (1996), 30:269-274. [http://journals.cambridge.org/action/displayAbstract?fromPage=online&aid=4946816 online]</ref>.
Nó được cho là hoàn toàn tuyệt chủng cho đến khi một đàn nhỏ đã được phát hiện vào năm 1988 ở Bhutan và đông nam Tây Tạng. Phạm vi ban đầu có thể bao phủ nhiều thung lũng nhỏ của [[sông Brahmaputra]] ở phía bắc của [[dãy Himalaya]] ([[Sông Yarlung Tsangpo]])<ref name="Geist"/>.
 
Một cuộc khảo sát vào năm [[1995]] đem tới một phát hiện thú vị, đó là một dân số khoảng 200 cá thể hươu đỏ Tây Tạng vẫn còn tồn tại ở phía bắc của sông Yarlung Tsangpo gần làng Zhenqi. Vì đây là dân số khả thi duy nhất được biết đến của hươu này, một kế hoạch thiết lập một khu bảo tồn để bảo vệ ở đây. Bằng chứng về một số quần khác đã được tìm thấy xung quanh sông Subansiri<ref>George B. Schaller, Wulin Liua and Xiaoming Wang: ''Status of Tibet red deer''. Oryx (1996), 30:269-274. [http://journals.cambridge.org/action/displayAbstract?fromPage=online&aid=4946816 online]</ref>.
==Tham khảo==
{{tham khảo}}