Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thể bào tử”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Alphama Tool, General fixes
n AlphamaEditor, General Fixes
Dòng 1:
[[ImageHình:Mech plonnik mlode sporofity.jpg|thumb|350px|Những thể bào tử nhỏ của [[Ngành Rêu|rêu]] Tortula muralis. Ở các loài [[Ngành Rêu|rêu]], thể giao tử là thế hệ chiếm ưu thế, trong khi thể bào tử thì gồm các thân nhỏ mang theo bọc bào tử, phát triển từ phần chóp của thể giao tử.]]
 
'''Thể bào tử''' là trạng thái lưỡng bội [[đa bào]] trong vòng đời của thực vật hoặc [[tảo]]. Nó phát triển từ các hợp tử được tạo ra khi mà một tế bào trứng đơn bội được thụ tinh bởi một [[tinh trùng]] đơn bội, do đó mỗi tế bào đều có một bộ [[nhiễm sắc thể]] kép, từ cây bố và mẹ. Tất cả các loài thực vật trên mặt đất, và hầu hết các loài tảo, đều có vòng đời mà giai đoạn thể bào tử lưỡng bội đa bào luân phiên với giai đoạn thể giao tử đơn bội đa bào. Ở các loài [[thực vật có hạt]], [[thực vật hạt trần]] và [[thực vật có hoa]], giai đoạn thể bào tử nổi bật hơn là thể giao tử, và là cây có màu xanh quen thuộc với [[rễ]], [[thân]], [[lá]] cùng với quả hình nón hay hoa. Ở thực vật có hoa, thể giao tử rất hạn chế về kích thước, và thường được đại diện bởi [[Phấn hoa|hạt phấn]] và túi phôi.
Dòng 5:
'''Thể bào tử''' tạo ra [[bào tử]] bằng [[Giảm phân|sự giảm phân]]. Những bào tử giảm phân này phát triển thành một thể giao tử. Cả bào tử và thể giao tử sau đó đều là đơn bội, có nghĩa rằng chúng chỉ có một bộ nhiễm sắc thể tương đồng. Thể giao tử trưởng thành sẽ tạo ra giao tử đực hay cái (hoặc cả hai) bằng [[Nguyên phân|sự nguyên phân]]. Sự kết hợp của giao tử đực và cái sẽ tạo ra một hợp tử lưỡng bội và sẽ phát triển thành một thể bào tử mới. Chu kỳ này được biết với tên gọi là "sự luân phiên giữa các thế hệ" hay là "sự luân phiên giữa các giai đoạn".
 
[[ImageHình:Acer palmatum BotGartenMuenster Faecherahorn 6691.jpg|350px|thumb|Ở những [[thực vật có hoa]], thể bào tử bao gồm toàn bộ cơ thể đa bào, ngoại trừ [[Phấn hoa|hạt phấn]] và túi phôi.]]
 
Ở các loài [[rêu]] ([[Ngành Rêu]], rêu tản (livewort), rong nước (hornwort)) có một giai đoạn thể giao tử chiếm ưu thế mà thể bào tử trưởng thành phải phụ thuộc vào đó vì các dưỡng chất. [[Phôi]] thể bào tử phát triển bằng cách [[Phân bào|phân chia tế bào]] của hợp tử bên trong cơ quan sinh dục cái là túi chứa noãn (archegonium), và do đó ở giai đoạn mới phát triển, phôi thể bào tử được nuôi dưỡng bởi thể giao tử.<ref>[[Ralf Reski]](1998): Development, genetics and molecular biology of mosses. In: Botanica Acta. Bd. 111, S. 1-15.</ref> Bởi vì tính năng nuôi dưỡng phôi trong vòng đời rất phổ biến ở các loài thực vật trên mặt đất nên chúng còn được gọi chung là [[thực vật có phôi]].
 
[[ImageHình:Physcomitrella Sporophyt.JPG|thumb| Bào tử thể Cleistocarpous của loài rêu ''Physcomitrella patens'']]
 
Hầu hết các loại [[tảo]] đều có các thế hệ mà thể giao tử chiếm ưu thế, nhưng ở một vài loài thì thể giao tử và thể bào tử lại tương tự nhau về mặt hình thái (isomorphic – đồng hình). Thể bào tử độc lập là dạng chiếm ưu thế của tất cả cá loài thạch tùng (club-moss), [[mộc tặc]], [[Ngành Dương xỉ|dương xỉ]], thực vật hạt trần, thực vật hạt kín (thực vật có hoa) mà tồn tại cho đến ngày nay. Những thực vật trên mặt đất ban đầu đã có các thể bào tử mà tạo ra các bào tử giống y như nhau (đồng dạng bào tử) nhưng tổ tiên của các loài thực vật hạt trần đã tiến hóa các vòng đời khác dạng bào tử, mà bào tử tạo ra các thể giao tử đực và cái với kích cỡ khác nhau. Đại bào tử cái thường lớn hơn và có số lượng ít hơn so với tiểu bào tử đực.