Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Avro Canada CF-100 Canuck”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, replaced: → (5) using AWB
Dòng 11:
|ngừng hoạt động=1981
|tình trạng=
|hãng sử dụng chính= {{Cờ|Canada}} [[Không quân Hoàng gia Canada]] <br> {{Cờ|Bỉ}} [[Không quân Bỉ]] <br>
|được chế tạo=
|số lượng được sản xuất=692
Dòng 35:
Tháng 9/1950, RCAF đặt mua 124 chiếc thuộc phiên bản Mk 3; chiếc đầu tiên đưa vào trang bị năm 1953. Chúng được trang bị 8 khẩu súng máy.50-cal. Phiên bản cuối cùng trang bị đạn phản lực là '''Mk 4A''', được chế tạo dựa trên mẫu thử Mk 4 (thực chất là Mk 3 sửa đổi), bay lần đầu ngày 11/10/1952. Phần mũi đặt radar APG-40, giá treo đầu cánh có thể mang được thùng phóng rocket. 54 chiếc Mk 3 thuộc 1 đơn đặt hàng đã được đổi thành '''Mk 4''' vào năm 1954, tổng cộng Mk 4 được chế tạo 510 ciếc. Phiên bản '''Mk 4B''' có động cơ Orenda 11 khỏe hơn.
 
5 phiên bản, hay gọi là "mark", đã được sản xuất, phiên bản cuối cùng '''Mk 5''' được sản xuất từ năm 1955 trở về sau. Phiên bản Mk 5 có đầu cánh dài thêm 1,06 m (3&nbsp;ft. 6 in.) và đuôi rộng hơn, bỏ đi các khẩu súng máy. Phiên bản đề xuất '''Mk 6''' có thể lắp [[tên lửa Sparrow|tên lửa Sparrow II]] và trang bị động cơ Orenda 11IR có chế độ đốt tăng lực, mục đích là để tạo ra một mẫu tiêm kích tạm thời trước khi Avro [[Avro Canada CF-105 Arrow|CF-105 Arrow]] được đưa vào trang bị. Một dự án CF-103 cánh xuôi cận âm đã được nghiên cứu và một mô hình mẫu đã được chế thử vào năm 1951, nhưng bị xem là yếu kém, ngay cả chiếc CF-100 khi bổ nhào cũng có thể đạt vận tốc âm thanh lớn hơn CF-103. 18/12/1952, phi công thử nghiệm trưởng của công ty Avro là [[Janusz Żurakowski]] đã điều khiển mẫu thử Mk 4 đạt vận tốc Mach 1 khi bổ nhào từ độ cao 30.000&nbsp;ft, đây là máy bay phản lực cánh thẳng đầu tiên bay siêu âm có điều khiển.<ref>Whitcomb. p.89</ref>
 
==Lịch sử hoạt động==
Dòng 45:
CF-100 được biên chế cho các đơn vị thuộc [[Bộ tư lệnh phòng không Bắc Mỹ]] Hoa Kỳ/Canada (NORAD) để bảo vệ không phận Bắc Mỹ khỏi các máy bay chiến đấu của [[Liên Xô]] như máy bay ném bom chiến lược. Ngoài ra, 4 phi đoàn Canuck đóng quân tại Châu Âu, thuộc [[Sư đoàn Không quân 1 RCAF|Sư đoàn không quân 1]] nằm dưới sự chỉ huy của [[NATO]], hoạt động trong giai đoạn 1956-1962.
 
Khi [[Chiến tranh Triều Tiên]] nổ ra, [[Không quân Hoa Kỳ|USAF]] có nhu cầu về một máy bay phản lực, hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, đánh chặn tiếp tế/trinh sát. Do nhu cầu cấp bách nên USAF đã xem xét 2 mẫu máy bay là: CF-100 và [[English Electric Canberra]]. CF-100 đã bị loại bỏ vì không đủ tầm bay và tải trọng. Thiết kế của [[English Electric]] được chọn và được phát triển thành [[Martin B-57 Canberra|B-57 Canberra]].<ref>[http://www.nationalmuseum.af.mil/factsheets/factsheet.asp?id=2677 "English Electric Canberra B-57 Prototype."] ''National Museum of the USAF''. Truy cập: ngày 7 tháng 2 năm 2010.</ref><ref>Baugher, Joe. [http://www.joebaugher.com/usaf_bombers/b57_1.html " Martin B-57A."] ''USAAC/USAAF/USAF Bomber Aircraft-Third Series'',ngày 13 tháng 8 năm 2006. Truy cập: ngày 7 tháng 2 năm 2010.</ref>
 
CF-100 phục vụ trong 9 phi đoàn của RCAF vào thời kỳ đỉnh điểm giữa thập niên 1950. 4 phi đoàn được triển khai tới Châu Âu trong giai đoạn 1956-1962 dưới chương trình NIMBLE BAT, thay thế một số phi đoàn RCAF phục vụ trong NATO trang bị các máy bay tiêm kích ngày [[Canadair Sabre]], các phi đoàn trang bị CF-100 được sử dụng để đánh chặn các máy bay của Xô viết bay vào không phận do khối NATO kiểm soát.
Dòng 167:
* [[Larry Milberry|Milberry, Larry]]. ''The Avro CF-100''. Toronto: CANAV Books, 1981. ISBN 0-9690703-0-6.
* Page, Ron. ''Canuck: CF-100 All Weather Fighter''. Erin, Ontario: Boston Mills Press, 1981. ISBN 0-919822-39-8.
* Whitcomb, Randall L. ''Cold War Tech War: The Politics of America's Air Defense''. Burlington, Ontario: Apogee Books, 2008. ISBN 978-1-894959-77-3.
{{cuối tham khảo}}