Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hawker Tempest”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n using AWB
→‎Phát triển: clean up, replaced: → (2) using AWB
Dòng 28:
Kiểu cánh mới bó hẹp việc gắn bốn khẩu pháo [[Hispano 20 mm]] đã được thiết kế để trang bị cho chiếc Typhoon. Chúng phải được gắn lui vào trong cánh, và cánh cũng được mở rộng thành dạng [[cánh dạng elip|elip]] để chứa được các khẩu pháo và 800 quả đạn. Cánh dạng elip mới có diện tích cánh lớn hơn chiếc Typhoon. Camm, một người có đầu óc hài hước, sau này đã nhận xét: "Ban tham mưu Không quân sẽ không mua bất cứ cái gì trông không giống chiếc [[Supermarine Spitfire|Spitfire]] đâu."
 
Một tính chất quan trọng của kiểu cánh mới là bộ tản nhiệt của kiểu động cơ mới [[Napier Sabre|Napier Sabre IV]] được bố trí trên [[cạnh trước cánh|cạnh trước]] của cánh bên trong chỗ gắn bộ càng đáp. Điều này cho phép bỏ bớt cái "râu" tản nhiệt dưới cằm đặc trưng đi kèm theo chiếc Typhoon, và cải thiện được tính năng khí động học, nhưng nó lại chiếm chỗ các thùng nhiên liệu vốn cũng được đặt trên cùng vị trí cạnh trước cánh bên trong bộ càng đáp của chiếc Typhoon. Điều này sẽ làm giảm đáng kể trữ lượng nhiên liệu, nhưng các kỹ sư của Hawker thấy rằng họ có thể kéo dài khung thân thêm 53 cm (21 in) phía trước [[buồng lái]] để có thể chứa thêm nhiên liệu trong [[thân máy bay|thân]], cho phép có tổng cộng 360 [[gallon]] nhiên liệu và một bán kính hoạt động lên đến 500 dặm, gần gấp đôi chiếc Spitfire IX.
 
Bộ càng đáp dài hơn và có khoảng cách giữa hai vệt bánh rộng hơn (16 ft) để tăng tính ổn định ở tốc độ hạ cánh khá cao 180 km/h (110 mph) cũng như cho bộ [[cánh quạt]] mới bốn cánh có [[đường kính]] lên đến 12 ft. Bộ càng đáp mới cũng đòi hỏi vỏ bánh đáp mới mỏng hơn để gắn vừa bên trong cánh.
Dòng 34:
Thiết kế mới về căn bản đã cố định vào [[tháng mười|tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]], và Bộ Hàng không đã phát hành một bản tiêu chuẩn số hiệu '''F.10/41''' được viết ra phù hợp với kiểu máy bay này. Một hợp đồng sản xuất hai chiếc [[nguyên mẫu]] được ký kết sau đó một tháng. Chiếc máy bay ban đầu được đặt tên là ''Typhoon Mark II'' nhưng được đổi tên thành ''Tempest'' vào [[tháng một|tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]] khi nhiều chiếc nguyên mẫu dựa trên các cấu hình thử nghiệm khác nhau được đặt hàng. Những kinh nghiệm về sự cố liên quan đến việc giao hàng các động cơ đã khiến Bộ Hàng không yêu cầu sáu chiếc nguyên mẫu với các kiểu động cơ khác nhau, để khi có sự trì hoãn một kiểu động cơ này thì sẽ có kiểu thay thế. Do đó chiếc Mk I (số hiệu HM599) trang bị động cơ Sabre IV, hai chiếc Mk IIs (LA602 và LA607) với động cơ Centaurus IV, MK III (LA610) với động cơ Griffon IIB, Mk IV (LA614) với động cơ Griffon 61 và Mk V (HM595) với động cơ Sabre II.
[[Tập tin:Hawker Tempest ExCC.jpg|nhỏ|phải|Chiếc nguyên mẫu Tempest V số hiệu HM595 cấu hình nguyên thủy với nóc buồng lái kiểu xe hơi giống chiếc [[Hawker Typhoon|Typhoon]] và cánh đuôi nhỏ.]]
Chiếc nguyên mẫu Tempest đầu tiên, chiếc Mark V, bay lần đầu tiên vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]]. Chiếc máy bay này thực ra chỉ là một chiếc Typhoon được gắn kiểu cánh elip mới và giữ lại phần khung máy bay của chiếc Typhoon, [[nóc buồng lái (máy bay)|nóc buồng lái]], cửa ra vào kiểu [[ô tô|xe hơi]], động cơ Sabre II, và tản nhiệt dạng "râu". Nó nhanh chóng được gắn [[nóc buồng lái kiểu giọt nước]] giống như những chiếc Typhoon đời sau và một [[cánh đuôi đứng]] cải tiến có diện tích điều khiển rộng hơn gần gấp đôi.
 
Các [[phi công thử nghiệm]] nhận thấy rằng chiếc Tempest là một cải tiến lớn về tính năng bay so với chiếc Typhoon, cho dù nó có "hơi khó lái hơn". Bộ Hàng không đã đặt hàng 400 chiếc Tempest vào [[tháng tám|tháng 8]] nhưng việc sản xuất kiểu động cơ Sabre IV mới gắp những sự cố kéo dài và bị trì hoãn. Chiếc nguyên mẫu thứ hai, "Tempest Mark I" gắn động cơ Sabre IV chưa thể bay được cho đến tận ngày [[24 tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. Chiếc nguyên mẫu này ban đầu cũng buồng lái kiểu cũ và cánh đuôi đứng theo kiểu chiếc Typhoon. Việc loại bỏ tản nhiệt động cơ kiểu "râu" góp phần đáng kể trong việc cải thiện tính năng bay và chiếc Tempest Mark I là máy bay nhanh nhất mà Hawker từng chế tạo cho đến lúc đó, đạt được tốc độ 750 km/h (466 mph).