Khác biệt giữa bản sửa đổi của “LTV A-7 Corsair II”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, replaced: → (3) using AWB
Dòng 49:
 
[[Tập tin:CVW-19 1970.jpg|phải|220px|nhỏ|Các chiếc Corsair trên tàu sân bay USS Oriskany.]]
Hải quân Hoa Kỳ thiệt hại chiếc A-7 đầu tiên vào ngày [[22 tháng 12]] năm [[Hàng không năm 1967|1967]], chưa đầy ba tuần sau khi tham gia hoạt động chiến đấu. Chiếc Corsair từ Phi đội VA-147 của tàu sân bay USS ''Ranger'' do Thiếu tá James M. Hickerson điều khiển đang tấn công một vị trí pháo phòng không, khi một tên lửa SAM nổ bên dưới máy bay của ông, động cơ và hệ thống thủy lực bị hỏng và ông phải phóng ra. Thiếu tá Hickerson trở thành tù binh chiến tranh và được phóng thích ngày [[14 tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1973|1973]]. Thiệt hại cuối cùng của A-7 Corsair Hải quân trong cuộc chiến là vào ngày [[29 tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1973|1973]], khi Trung tá T.R. Wilkinson thuộc Phi đội VA-147 cất cánh từ tàu sân bay [[USS Constellation (CV-64)|USS ''Constellation'']] bị mất tích trong một phi vụ huấn luyện; ông được ghi nhận là đã hy sinh khi bay. Hai mươi tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ đã từng luân phiên hoạt động tại vùng biển Đông Nam Á để thực hiện các phi vụ không kích từ năm 1967 đến năm 1973. Mười trong số những tàu sân bay đó bị thiệt hại những chiếc A-7 Corsair II: [[USS Ticonderoga (CV-14)|USS ''Ticonderoga'']] mất ba, USS ''Constellation'' mất 15, USS ''Ranger'' mất 11, [[USS Coral Sea (CVB-43)|USS ''Coral Sea'']] mất 13, [[USS Midway (CVB-41)|USS ''Midway'']] mất hai, [[USS Oriskany (CV-34)|USS ''Oriskany'']] mất tám, [[USS Saratoga (CVA-60)|USS ''Saratoga'']] mất tám, [[USS Kitty Hawk (CV-63)|USS ''Kitty Hawk'']] mất 13, [[USS Enterprise (CVN-65)|USS ''Enterprise'']] mất ba, và chiếc [[USS America (CVA-66)|USS ''America'']] mất 16. Có 15 máy bay trong số đó bị bắn rơi do tên lửa đất-đối-không (SAM).
 
A-7D của Không quân Hoa Kỳ cũng được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam và [[Campuchia]] cùng các Không đoàn Tiêm kích Chiến thuật 354 và 388 bay từ [[Căn cứ Korat]] của [[Không quân Hoàng gia Thái Lan]]. A-7 của Phi đoàn 354 bắt đầu hoạt động từ [[tháng mười|tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1972|1972]] và tấn công các mục tiêu cách xa căn cứ đến 800 km, sử dụng rộng rãi phương pháp tiếp nhiên liệu trên không. Chiếc A-7D được nhanh chóng giao cho vai trò trong các "phi vụ Sandy" cung cấp sự yểm trợ từ trên không để giải cứu các phi công bị bắn rơi. Nhận lãnh vai trò này từ những chiếc [[Douglas A-1 Skyraider|A-1 Skyraider]] (nên mới có cái tên "Sandy"), tốc độ cao của chiếc A-7 phần nào bất lợi cho việc hộ tống những máy bay trực thăng nhưng khả năng hoạt động kéo dài và sức bền chịu đựng cao của chiếc máy bay rất có giá trị và nó hoạt động một cách đáng ngưỡng mộ. Vào ngày [[18 tháng 11]] năm [[Hàng không năm 1972|1972]], Thiếu tá [[Colin A. Clarke]] đã lãnh đạo một phi vụ thành công gần [[Thanh Hóa]] để giải cứu một đội bay [[Republic F-105 Thunderchief|F-105 Wild Weasel]] bị bắn rơi. Phi vụ kéo dài tổng cộng 8,8 giờ trong đó Clarke và đồng đội của ông trúng phải nhiều phát đạn từ súng phòng không 12,7 mm (0,51 inch). Vì những hành động phối hợp trong phi vụ giải cứu, Clarke đã được tặng thưởng [[Huân chương Chữ thập bay (Hoa Kỳ)|Huân chương Chữ thập bay]], huân chương cao quý thứ hai của Không quân.
Dòng 91:
 
=== Panama ===
Liên đội Tiêm kích Chiến thuật 180 thuộc Không lực Vệ binh Quốc gia Ohio đã ở tại [[Panama]] khi các hoạt động đối địch xảy ra vào [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[Hàng không năm 1989|1989]] và đã tham gia vào[[Chiến dịch Just Cause]]. Họ ở trong số những đơn vị Vệ binh Quốc gia luân phiên đến hoạt động tại [[Căn cứ Không quân Howard]] nhằm hiện diện tại Panama trong khuôn khổ cuộc tập trận '''Cornet Cove'''.
 
=== Chiến dịch Lá chắn Sa Mạc/Bảo táp Sa Mạc ===
Dòng 111:
Liên đội Chiến thuật 4450 trú đóng tại [[Căn cứ Không quân Nellis]], [[Nevada]] có điểm khác biệt độc đáo là đơn vị Không quân hoạt động thường trực cuối cùng sử dụng chiếc A-7 Corsair II. Vai trò của Liên đội 4450 là phát triển và thử nghiệm hoạt động chiếc máy bay tàng hình [[Lockheed F-117 Nighthawk|F-117 Nighthawk]], và đơn vị cần có một máy bay thay thế dành cho việc huấn luyện và thực hành phi công. Những chiếc A-7D và A-7K được lấy từ nhiều phi đội Không quân và Vệ binh Quốc gia đang hoạt động, và được bố trí vào đơn vị "(P)" của Liên đội 4450, sau được đặt tên là Phi đội Chiến thuật 4451 từ [[tháng một|tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1983|1983]].
 
Những chiếc A-7 được Liên đội sử dụng như là một chiếc máy bay ngụy tạo và huấn luyện từ năm [[Hàng không năm 1981|1981]] đến năm [[Hàng không năm 1989|1989]]. Nó được chọn vì nó yêu cầu một khối lượng tương đương công việc của phi công được dự trù cho chiếc F-117A, cùng là kiểu một chỗ ngồi, và nhiều phi công lái F-117A từng có kinh nghiệm trên những chiếc F-4 hay F-111. A-7 được sử dụng để huấn luyện phi công cho đến khi chiếc F-117A được giao nhằm nâng trình độ bay của các phi công lên ngang bằng chuẩn mực. Sau này, những chiếc A-7 được sử dụng trong các thử nghiệm săn đuổi chiếc F-117A và các thử nghiệm vũ khí khác tại Nellis Range. Các hoạt động bay của A-7 được bắt đầu từ [[tháng sáu|tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1981|1981]], trùng hợp với những chuyến bay đầu tiên của chiếc YF-117A. Những chiếc A-7 mang ký hiệu đuôi đặc trưng "LV" (thay cho Las Vegas) và có kiểu màu sơn tím đậm/đen, về mặt chính thức được bố trí tại Căn cứ Không quân Nellis và được bảo trì bởi Phi đội Bảo trì 4450.
 
Để thêm vào những cái cớ cho sự tồn tại và hoạt động của Liên đội Chiến thuật 4450, những chiếc A-7 cũng được sử dụng để duy trì đội ngũ phi công, đặc biệt là trong những giai đoạn đầu khi có rất ít chiếc F-117A được sản xuất sẵn có. Một số chiếc A-7 hoạt động từ sân bay Tonopah Test Range, khoảng 30 dặm về phía Tây Nam [[Tonopah, Nevada]], nơi những chiếc F-117 đang được thử nghiệm hoạt động thực tế và người ta đã cẩn thận không để những chiếc máy bay bên ngoài kho chứa máy bay vào ban ngày. Sự hiện diện của những chiếc A-7 tại Tonopah sẽ không thu hút sự chú ý của các cơ quan tình báo Xô Viết khi họ khảo sát những tấm ảnh do thám chụp căn cứ từ vệ tinh. Bằng cách này Liên Xô sẽ cho rằng Tonopah không có gì đáng quan tâm ngoại trừ vài chiếc Corsair.