Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Jean-de-Dieu Soult”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, General Fixes
clean up, replaced: → (13), → (15) using AWB
Dòng 3:
|image=Nicolas Jean de Dieu Soult.jpg
|order=[[Thủ tướng Pháp]] thứ 12
|term_start =11 tháng 10 năm 1832
|term_end =18 tháng 7 năm 1834
|predecessor =[[Casimir Pierre Perier]]
|successor =[[Étienne Maurice Gérard|Comte Gérard]]
|order2=[[Thủ tướng Pháp]] thứ 19
|term_start2 =12 tháng 5 năm 1839
|term_end2 =1 tháng 3 năm 1840
|predecessor2 =[[Louis, comte Molé]]
|successor2 =[[Adolphe Thiers]]
|order3=21<sup>st</sup> [[Thủ tướng Pháp]]
|term_start3 =29 tháng 10 năm 1840
|term_end3 =19 tháng 9 năm 1847
|predecessor3 =[[Adolphe Thiers]]
|successor3 =[[François Guizot]]
|birth_date ={{birth date|df=yes|1769|3|29}}
|death_date ={{death date and age|df=yes|1851|11|26|1769|3|29}}
|party=None
}}
Dòng 25:
Soult sinh ra ở [[Saint-Arnans-la-Bastide]] (nay là thị trấn [[Castres, Tarn|Castres]] tỉnh Tarn- nước Pháp), gia đình làm công chứng viên thành phố. Soult được thụ hưởng một nền giáo dục tốt, và gia đình hướng ông theo nghề luật sư, nhưng cha ông chết khi ông còn bé, điều đó đã ảnh hưởng nhiều đến tương lai của ông, năm 1785, ông gia nhập vào bộ binh Pháp. Nền giáo dục tốt đã giúp ông nhiều trong việc thăng tiến, trong vòng 6 năm, ông đã được thăng lên cấp hạ sĩ quan, và vào tháng 7 năm 1791, ông trở thành người hướng dẫn cho tiểu đoàn quân tình nguyện tới [[Bas-Rhin]], ông phục vụ trong quân đội ở đây tới năm 1792. Tới năm 1794 ông trở thành sĩ quan quản trị cao cấp (với hàm thiếu tá "chef de brigade").
 
Soult đóng góp một phần rất lớn vào tất cả những trận chiến nổi tiếng La Grande Armée, trừ trận Friedland, và sau hiệp ước hòa bình Tilsit, ông quay lại Pháp và được phong làm công tước xứ Dalmatia vào năm 1808, nhưng phần thưởng này lại làm ông cảm thấy rất khó chịu, theo ông, danh hiệu xứng đáng với ông phải là Công tước xứ Austerlitz, danh hiệu mà trước đó Napoleon đã hứa dành riêng cho ông. Những năm sau đó, ông được giao làm chỉ huy quân đoàn số 2 của quân đội xâm chiếm Tây Ban Nha, và sau chiến thắng tại Gamonal, Soul được lệnh của Hoàng đế truy bắt John Moore, cuối cùng bắt được Moore tại Corunna (Tây Ban Nha).
Trong bốn năm tiếp theo, ông vẫn tiếp tục ở Tây Ban Nha, và tham gia vào chiến tranh bán đảo (Peninsular war). Được lệnh tham gia chiến trường Bồ Đào Nha, Trong trận Porto, Soult bị đại bại trước một đạo quân Anh quá mạnh của Wellesley (tức Quận công Wellington), bị truy kích bởi Beresford và Silveira. Nhằm chấm dứt những ganh đua của các tướng lĩnh Pháp tại Tây Ban Nha, Napoleon chỉ định Soult làm chỉ huy quân sự tại chiến trường này, và sớm nhận được những lời đánh giá rất tốt đẹp của quân đội tại đây. Sau trận chiến Talavera (1809), chiến thắng tại Ocana vào ngày 19 tháng 11 năm 1809 đã chứng minh rằng niềm tin của Hoàng đế đã đặt đúng người.
Năm 1810 Soult tham gia xâm lược Andalusia, và đã tiến hành xâm lược một cách nhanh chóng, trừ một chút khó khăn tại trận Cádiz. Năm 1811, Soult tiến quân từ hướng Bắc vào Extramadura (Tây ban nha) chiếm được Badajoz, gần sau đó diễn ra trận đánh nổi tiếng giữa quân Pháp do Soult chỉ huy và liên quân Bồ Đào Nha- Anh tại Albuera.
Tháng 3 năm 1813, Soult được giao nhiệm vụ tới miền Bắc nước Pháp để khắc phục những thiệt hại bởi thất bại nặng nề của vua Joshep Bornaparte tại trận Vitoria. Chiến dịch lần này của Soult được đánh giá rất cao mặc dù kết quả là ông bị đại bại trước quân đội Anh của Quận công Wellington, bởi quân của ông trong chiến dịch này hoàn toàn thua xa quân của Wellington về kinh nghiệm chiến đấu và lòng dũng cảm. Cuộc tiến công lần cuối của Soult vào Tây Ban Nha- như nói ở trên- bị đẩy lùi tại trận Pyrenees. Cuối cùng Soult giao chiến với Quận công Wellington trận đánh đẫm máu tại Toulouse và một lần nữa quân Pháp thảm bại. Đây là trận đánh cuối cùng của cuộc Chiến tranh Bán đảo.<ref>[[Jeremy Black]], ''European warfare in a global context, 1660-1815'', trang 135</ref><ref>Norman Gash, ''Wellington: studies in the military and political career of the first Duke of Wellington'', trang 112</ref>