Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kim Ai Tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Thân thế và cuộc sống ban đầu: clean up, replaced: phụ thân → cha, Mẫu thân → Mẹ using AWB |
clean up, replaced: → (36) using AWB |
||
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = Kim Ai Tông
| tước vị = [[Hoàng đế]] [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]]
| thêm = china
| hình =
| cỡ hình =
| ghi chú hình =
| chức vị = Hoàng đế [[nhà Kim]]
| tại vị = [[1224]] – [[1234]]
Dòng 13:
| tên đầy đủ = Tên phiên sang tiếng Trung: Hoàn Nhan Ninh Giáp Tốc (完顏寧甲速)<br>Tên chữ Hán: Hoàn Nhan Thủ Lễ (完颜守禮), đổi thành Hoàn Nhan Thủ Tự<ref>Đổi năm 1216 khi được tấn phong hoàng thái tử.</ref> (完颜守緒)
| kiểu tên đầy đủ = Tên thật
| miếu hiệu = Ai Tông
| thông tin niên hiệu = ẩn
| niên hiệu =
| thời gian của niên hiệu =
| tước hiệu = [[Hoàng đế]]
| thụy hiệu = Ai Tông <ref>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E9%87%91%E5%8F%B2/%E5%8D%B718 Kim sử], Quyển 18: Bản kỷ - Ai Tông
| hoàng tộc = [[nhà Kim]]
| vợ = Xem văn bản.
| thông tin con cái = ẩn
| con cái = Xem văn bản.
| kiểu hoàng tộc = Triều đại
Dòng 35:
'''Kim Ai Tông ''' ([[chữ Hán]]: 金哀宗, [[bính âm]]: ''Jin Aizong'', [[25 tháng 9]] năm [[1198]] - [[9 tháng 2]] năm [[1234]]), tên Hán là '''Hoàn Nhan Thủ Lễ''' (完顏守禮) hay '''Hoàn Nhan Thủ Tự''' (完顏守緒), [[tên Nữ Chân]] là '''Ninh Giáp Tốc''' (寧甲速), là vị [[hoàng đế]] thứ 9 của triều đại [[nhà Kim]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Ông là con trai thứ ba của [[Kim Tuyên Tông]] Hoàn Nhan Tuân, mẹ là Vương thị, chào đời năm [[1198]]. Khi Tuyên Tông đăng cơ ([[1213]]), Thủ Lễ được nhận tước vị Toại vương. Do thái tử [[Hoàn Nhan Thủ Trung]] và thái tôn [[Hoàn Nhan Khanh]] mất sớm nên vào tháng giêng năm [[1216]], Hoàn Nhan Thủ Lễ được Tuyên Tông lập làm thái tử, đổi tên là Hoàn Nhan Thủ Tự. Tháng giêng ÂL năm [[1224]], Tuyên Tông qua đời, Hoàn Nhan Thủ Tự lên nối ngôi, tức là Kim Ai Tông.
Kim Ai Tông
Nhưng mặc dù đã rất cố gắng nhưng Ai Tông
== Thân thế và cuộc sống ban đầu ==
Kim Ai Tông
Giữa những năm Thái Hòa đời [[Kim Chương Tông]] ([[1201]] - [[1208]]), Hoàn Nhan Thủ Lễ được phong chức Kim tử Quang lộc đại phu<ref name="KS17" />. Nói thêm về tình hình nước Kim lúc này: Vào năm [[1208]], [[Kim Chương Tông]] qua đời, không con nối dõi nên hoàng thúc Vệ Thiệu vương [[Hoàn Nhan Vĩnh Tế]] được lập nối ngôi<ref>''[[Kim sử]]'', [[:zh:s:金史/卷12|quyển 12]]</ref><ref>''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s::續資治通鑑/卷158|quyển 158]]</ref>. Bấy giờ trong cung có hai phi tần là Giả thị và Phạm thị đã có mang, Chương Tông có di chiếu nếu sinh con trai thì lập làm thái tử. Vĩnh Tế lo sợ cho ngôi báu của mình, nên cùng [[Bộc Tán Đoan]] tính kế. [[Bộc Tán Đoan]] giả truyền chiếu chỉ của tiên đế, nói Giả thị sinh vào tháng 11 mà nay đã quá hạn; Phạm thị phải sinh vào tháng giêng mà nay ngự y chuẩn đoán không thấy thai, hai người bị ép làm ni cô. Nguyên phi Lý thị vốn có thâm tình với Giả thị biết được sự việc có điều mờ ám nên cũng bị Vĩnh Tế bức chết. Trong ngoài đều hoài nghi, lòng dân không yên. Sau đó lại có chuyện [[Nguyên Thái Tổ]] [[Thiết Mộc Chân]] dẫn quân xâm lược nước Kim, nước Kim nhanh chóng thất thế trong cuộc giao tranh. Giữa lúc đó trong cung lại có chính biến. Năm [[1213]] tướng [[Hồ Sa Hổ]] giết chết vua Vĩnh Tế, lập Hoàn Nhan Tuân lên ngôi, tức [[Kim Tuyên Tông]]<ref>''[[Kim sử]]'', [[:zh:s:金史/卷13|quyển 13]]</ref>. Năm [[1214]], trước sự tấn công của người Mông, Tuyên Tông quyết định chạy về phía nam sông Hoàng Hà, định đô ở Biện Kinh. Năm [[1215]], Trung Đô của nước Kim (tức Yên Kinh) bị quân Mông chiếm được, nước Kim ngày một suy yếu, không thể chống đỡ nổi quân Mông.
Dòng 58:
=== Trị vì thời kì đầu ===
Không lâu sau khi lên ngôi, Ai Tông
Thừa tướng nước Kim [[Cao Nhữ Lệ]] khi đó tuổi đã có nhưng vẫn ở ngôi vị không từ gian, gián quan nhiều lần đàn hặc là tham quyền cố vị và xin bãi chức để tránh lệ xấu về sau, Ai Tông
Tháng 5 ÂL, dùng Xu mật phó sứ [[Hoàn Nhan Tái Bất]] làm Bình chương chính sự, Thạch Trản Úy Hãn làm thượng thư hữu thừa, [[Lý Hề]] kiêm quyền tham chính. Lúc trước kia quần thần liên danh xin lập hậu, Ai Tông
=== Kháng cự Mông Cổ ===
Dòng 70:
Tháng 3 ÂL năm [[1226]], do Thiểm Tây có hạn hán, Bình chương chính sự [[Tư Đỉnh]] xin được từ chức, Ai Tông không theo và hạ lệnh cho Thượng thư tỉnh giảm bớt hình phạt. Tháng 7 ÂL năm này, Tư Đỉnh hoăng<ref name=KS17 />. Cuối năm này, triều Kim dùng [[Lý Hề]] giữ chức Tham tri chính sự. Về phần triều Tống lúc này tướng [[Lý Toàn]] làm phản, sai người liên hệ với Kim, hứa dâng Vu Thai, vua Kim sai sứ phong Toàn làm Hoài Nam vương, nhưng Toàn giả vờ không nhận và từ đó chiếm cứ lưu vực sông Hoài tự trị; tuy nhiên chỉ ít lâu thì bị triều Tống tiêu diệt.
Lúc này Hạ chủ phụ [[Lý Tuân Húc]] đã tồ, Nam Bình vương [[Lý Hiện]] làm hoàng đế nước Hạ, triều Kim cử sứ sang dự tang. Trong lúc này Kim đình bàn việc nghị hòa với Tống cho yên mặt nam, nhưng lại gặp các tướng Tống là [[Vương Nghĩa Thâm]], [[Hạ Toàn]], [[Trương Huệ]], [[Phạm Thành Tiến]] ở Sở châu dâng thành đầu hàng, Ai Tông phong luôn bốn người làm quận vương, cải Sở châu thành Bình Hoài phủ, từ đó Kim - Tống lại xảy ra xung đột. Trong khi đó Mông chủ [[Thiết Mộc Chân]], lấy cớ người Hạ bội ước, đem quân tấn công [[Tây Hạ]], các tướng [[Hoàn Nhan Ngoa Khả]], [[Ngột Thạch Liệt Nha Ngô Tháp]] được triệu về Biện Kinh bàn việc xuất binh cứu Hạ, nhưng lúc này triều Kim đến bản thân cũng khó bảo toàn thì cũng chẳng thể giúp được ai. Chiến sự ở Lưỡng Hà vẫn thất lợi, từng vùng đất của Kim rơi vào tay người Mông. Ai Tông bắt đầu bàn tới việc nghị hòa với Mông Cổ, nhưng có Đồng phán phủ Mục Thân Tản Cáp phản đối, những đại thần khác tán thành. Tháng 6 ÂL năm [[1227]],
Lúc đó quân Mông Cổ đã tiến rất gần kinh đô nước Hạ. [[Thiết Mộc Chân]] bỗng lâm bệnh nặng, sai sứ trách cứ và đòi Hạ chủ gửi con tin để giảng hòa, Hạ chủ không theo. Mông chủ tức giận, dù ốm vẫn gượng dậy đốc chiến, người Hạ đại bại. Hạ chủ thế cùng lực kiệt phải dâng đất xin hàng. Triều Hạ từ Cảnh Tông [[Lý Nguyên Hạo]] đến Hậu chủ [[Lý Hiện]] là hơn 200 năm, cùng với Tống - Kim (trước đó là Liêu) ba nước hình thành thế chân vạc, kềm kẹp lẫn nhau, đến đó thì bị diệt vong. Quân Mông Cổ bắt vô số thiếu nữ và vàng bạc châu báu đem về nước. Nhưng không may Mông chủ [[Thiết Mộc Chân]] vốn đã mang bệnh, đến tháng 8 năm này thì bệnh tình trở nặng rồi qua đời ở Lục Bàn Sơn, thọ 66 tuổi, truy miếu hiệu là Thái Tổ. Trước lúc lâm chung Thái Tổ nói với tả, hữu
Dòng 77:
[[Thiết Mộc Chân]] chết đi, con trai thứ tư là [[Đà Lôi]] làm giám quốc, quân Mông lại theo hướng Phượng Tường tiến vào Kinh Triệu, cả Quan Trung trở nên chấn động. Triều Kim cho đốc thúc dân chúng Thiểm Tây chuẩn bị chống giặc, đốc thúc tiền thuế và quân lương, nhưng lại có đình nghị rằng quân Mông chưa tới nơi nên sự việc không được tiến hành khẩn trương.
Tháng 4 ÂL năm [[1228]], Hữu thừa Sư An Thạch dâng sớ xin giết ba kẻ gian nịnh bên cạnh Ai Tông khiến Ông
Năm [[1229]], người Mông tôn con thứ ba của Thái Tổ [[Thiết Mộc Chân]] là [[Oa Khoát Đài]] lên làm Đại Hãn<ref name="TTTTG164" />. Cuối năm này Ai Tông sai sứ sang Mông nghị hòa. Mông chủ [[Oa Khoát Đài]] không cho và còn quyết định đem quân phạt Kim. Tháng 10 ÂL năm này, quân Mông tấn công Khánh Dương của Kim. Kim sai người đến dâng lễ vật xin bãi binh nghị hòa, Mông chủ không cho; Ai Tông phải cử Y Lạt Bố Cáp cầm quân giải vây Khánh Dương nhưng thua trận, các thành lũy ở phía nam Hoàng Hà của Kim như Kinh Triệu, Vệ châu bị mất.
=== Chiến sự bất lợi ===
Đầu năm [[1232]], Ông
Mông Cổ quân tiến đánh các câu Quắc, Tung, Nhữ, Thiểm, Lạc, Hứa, Trịnh, Trần, Bạc, Dĩnh, Thọ, Tuy, Vĩnh bắt dân chúng dời lên phía bắc, nhiều người bị chết ở dọc đường. Lại đánh sang cả Đồng Quan và Thiểm châu, giết tướng [[Hoàn Nhan Ô Đăng]], rồi lấy Tuy châu, bao vây phủ Quy Đức. Ai Tông thấy thế nguy cấp, có lần túng quẫn đến nỗi muốn tự vẫn, may mà tả hữu cứu kịp. Ông theo kiến nghị từ quần thần, cho triệu tập 20 vạn dân quân bảo vệ Biện Kinh.
Đến tháng 3 ÂL, quân Mông lại kéo pháo tới bao vây Lạc Dương<ref name="TTTTG166" />. Tướng giữ Lạc Dương Triệt Hợp mắc bệnh ung thư qua đời, người trong thành đưa Cường Thân làm chủ huy, kiên trì cố thủ, người Mông đánh suốt ba tháng không được. Lúc này Mông Cổ chủ muốn về nước, lệnh [[Hoàn Nhan Hợp Đạt]] đánh Biện gây sức ép và buộc Ai Tông phải nhanh chóng hàng phục. Ông
=== Vứt Biện Kinh đào tẩu ===
Trước kia Bình chương chính sự Bạch Tán bị tướng sĩ oán ghét, đến khi người Mông rút đi thì quân sĩ muốn giết ông ta, Ai Tông phải hạ lệnh do 200 thân quân đến bảo vệ. Vào tháng 6 ÂL, các tướng ở Từ châu là [[Vương Hựu]], [[Trương Hưng]]... tác loạn đuổi Hành tỉnh Đồ Đan Y Đổ đến Túc châu. Tướng Mông Quốc An Dụng thừa cơ vào Từ châu, giết bọn Vương Hựu và nắm giữ Từ châu. Sau đó Mông chủ sai [[Đường Khánh]] đến Kim thông hảo, Ông
Đầu năm [[1233]], thống soái Quy Đức [[Thạch Trản Nữ Lỗ Hoan]] đưa lương đến Bồ Thành và mời Ai Tông đến phủ Quy Đức, nhưng giữa đường đi thì giông tố nổi lên, sóng nước dữ dội. Lúc Ai Tông qua được bờ bắc, tướng Mông là Hồi Cổcho quân đuổi theo truy kích, tướng Kim Hạ Đức Hỉ liều chết bảo vệ rồi tử trận ở bờ nam, hơn ngàn quân Kim tử vong. Mông chủ cử Bạch Triệt đánh Vệ châu bị tướng Mông [[Sử Thiên Trạch]] đánh bại, Bạch Triệt bỏ chạy về đông, bị Ông
Quy Đức lúc này cũng bị quân Mông áp sát. Nguyên soái [[Bồ Sát Quan Nô]] cùng [[Hoàn Nhan Dụng An]] muốn đưa Ai Tông về Hải châu, nhưng Ai Tông và [[Thạch Trản Nữ Lỗ Hoan]] không chấp nhận. Ai Tông sai người giám sát động tĩnh của họ, Quan Nô biết được rất tức giận, liền cho quân vào cung, giết chết Nữ Lỗ Hoan, [[Lý Hề]] và hơn 300 người, cấm cố Ai Tông ở Chiếu Bích đường. Ai Tông cùng kế phải phong hắn làm Quyền Tham tri chính sự, Tả phó nguyên soái.
Dòng 101:
=== Nội loạn và nam thiên ===
Ai Tông bị [[Bồ Sát Quan Nô]] cấm cố lấy làm phẫn nộ, liền liên hệ với nội thị [[Tống Khuê]], Phụng ngự nữ [[Hề Liệt Hoàn Xuất]], [[Ô Cổ Tôn Ái Thực]] cùng nhau diệt tặc và chuyển đến Thái châu. Lúc đó
:''Ai còn bàn chuyện nam thiên thì sẽ chém''.
Dòng 127:
:''Trẫm sở dĩ đem ngôi báu nhường cho khanh là vì vạn bất đắc dĩ. Trẫm thì cơ thể béo đẫy chả ngựa nào chịu nổi, còn khanh tài giỏi thao lược, nếu vạn nhất mà thoát được thì tông miếu giữ được, đó chính là ý của trẫm''<ref name="TTTTG167" />.
Sáng hôm sau, [[Hoàn Nhan Thừa Lân]] lên ngôi, tức là [[Kim Mạt Đế]]<ref name="TTTTG167" />. Vừa lúc đó quân Tống đánh vào thành nam. [[Hoàn Nhan Hốt Tà Hổ]] cùng khoảng 1000 quân ra nghênh chiến, quân lính bị thương vong gần hết.
:''Chúa thượng đã băng, ta còn chiến đấu vì cái gì nữa. Nhưng ta có chết cũng phải chết rõ ràng không chết trong loạn binh. Nay ta đi theo chủ thượng, các ông hãy tự mà lo liệu lấy''.
Dòng 136:
:''Tiên đế ở ngôi 10 năm, cần kiệm khoan nhân, có chí khôi phục nghiệp cũ, nhưng chí chưa thành mà đã mất, thực là ai oán, nên truy trụy là Ai''.
Lễ tôn thụy vừa xong thì liên quân đánh vào, [[Hoàn Nhan Thừa Lân]] chết trong loạn quân<ref name="TTTTG167" />. [[Hoàn Nhan Phong Sơn]] theo di chiếu đã cho hỏa thiêu di hài Kim chủ. Tướng Tống Giang Hải vào cung bắt được tham chính [[Trương Thiên Cương]]. [[Mạnh Củng]] vào hỏi nơi ở của Ai Tông thì mới biết Ai Tông đã chết. [[Mạnh Củng]] cho quân dập lửa và nhìn thấy thi hài khô đét của Kim chủ. Rồi cùng [[Tháp Sát Nhi]] đem hài cốt Ai Tông và vàng bạc châu báu của Kim chia làm hai, mỗi bên lấy một, lấy tây bắc Trần Thái làm ranh giới, bắc thuộc Mông, nam thuộc Tống. Nước Kim diệt vong. Tháng 4 ÂL, [[Trương Thiên Cương]] cùng phần thi hài Ai Tông
== Tham khảo ==
|