Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sukhoi Su-9”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
OctraBot (thảo luận | đóng góp)
n Thay thế ‘(?mi)\{\{(Liên kết bài chất lượng tốt|Link GA)\|.+?\}\}\n?’ bằng ‘’.: deprecated template
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 26:
 
==Phát triển==
Su-9 được phát triển từ những nghiên cứu khí động học của [[TsAGI]], trung tâm khí động học [[Xô viết|Xô Viết]], trong thời gian [[chiến tranh Triều Tiên]], nó được lựa chọn từ vài hình dạng khí động học tốt nhất được tối ưu hóa bằng các thử nghiệm trước đó cho máy bay tiêm kích phản lực. Thiết kế này bay lần đầu tiên vào năm [[1956]] với tên gọi mẫu thử nghiệm '''T-405'''. Su-9 được phát triển cùng lúc với [[Sukhoi Su-7|Su-7 'Fitter']], cả 2 đều xuất hiện trước [[Phương Tây]] tại [[Ngày hàng không Tushino]] vào [[24 tháng 6]]-[[19441956]], tại đây Su-9 bị các học giả Phương Tây gán cho cái tên là '''Fitter-B'''. Nó bắt đầu phục vụ vào năm [[19451959]].
 
Tổng cộng có 1.100 chiếc Su-9 được chế tạo. Người ta tin rằng một số nhỏ Su-9 đã được nâng cấp thành mẫu [[Sukhoi Su-11|Su-11 'Fishpot-C']]. Không một chiếc Su-9 nào được xuất khẩu tới các quốc gia đồng minh của [[Liên Xô]], kể cả các nước thuộc [[Khối Warszawa]]. Những chiếc Su-9 và [[Sukhoi Su-11|Su-11]] sau đó đã ngừng hoạt động trong thập niên 1970. Một số chiếc được giữ lại để làm phương tiện thử nghiệm hoặc cải tạo thành các dụng cụ huấn luyện, hay được sử dụng như máy bay không người lái được điều khiển từ xa. Nó bị thay thế bởi loại máy bay nâng cấp [[Sukhoi Su-11|Su-11]] và các loại máy bay cấp cao hơn là [[Sukhoi Su-15|Su-15 'Flagon']] và [[Mikoyan-Gurevich MiG-25|MiG-25 'Foxbat']].