Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Âm dương”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Tẩy trống trang (hoặc lượng lớn nội dung) Soạn thảo trực quan
n Đã lùi lại sửa đổi của 110.174.140.185 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của AlphamaBot
Dòng 5:
=== Nguồn gốc của âm dương ===
Âm dương là hai khái niệm được hình thành cách đây rất lâu. Về nguồn gốc của âm dương và triết lý âm dương, rất nhiều người theo Khổng An Quốc và Lưu Hâm ([[nhà Hán]]) mà cho rằng [[Phục Hy]] là người có công sáng tạo. Một số người khác thì cho rằng đó là công lao của "âm dương gia", một giáo phái của [[Trung Quốc]]. Cả hai giả thuyết trên đều không có cơ sở khoa học vì Phục Hy là một nhân vật thần thoại, không có thực còn âm dương gia chỉ có công áp dụng âm dương để giải thích địa lý-lịch sử mà thôi. Phái này hình thành vào [[thế kỷ thứ 3]] nên không thể sáng tạo âm dương được.
 
Các nghiên cứu khoa học liên ngành của Việt Nam và Trung Quốc đã kết luận rằng "khái niệm âm dương có nguồn gốc phương Nam". ("Phương Nam" ở đây bao gồm vùng nam Trung Hoa, từ sông [[Dương Tử]] trở xuống và vùng [[Việt Nam]]. Xem thêm [[dân tộc Việt Nam]] để biết thêm khu vực của người [[Cổ Mã Lai]] sinh sống.) Trong quá trình phát triển, nước Trung Hoa trải qua hai thời kỳ: 1. "Đông tiến" là thời kỳ Trung Hoa mở rộng từ thượng lưu (phía tây) xuống hạ lưu (phía đông) của sông [[Hoàng Hà]]; 2. "Nam tiến" là thời kỳ mở rộng từ lưu vực sông Hoàng Hà (phía bắc) xuống phía nam sông Dương Tử. Trong quá trình nam tiến, [[người Hán]] đã tiếp thu triết lý âm dương của các cư dân phương nam, rồi phát triển, hệ thống hóa triết lý đó bằng khả năng phân tích của người du mục làm cho triết lý âm dương đạt đến hoàn thiện và mang ảnh hưởng của nó tác động trở lại cư dân phương nam.
 
Cư dân phương nam sinh sống bằng [[nông nghiệp]] nên quan tâm số một của họ là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người. Sinh sản của con người thì do hai yếu tố: ''cha'' và ''mẹ'', ''nữ'' và ''nam''; còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì do ''đất'' và ''trời'' - "đất sinh, trời dưỡng". Chính vì thế mà hai cặp "mẹ-cha", "đất-trời" là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn đến triết lý âm dương. Về mặt [[ngôn ngữ học]], "âm dương" là phát âm của ''yin yang'' trong [[tiếng Hán]], nhưng chính tiếng Hán để chỉ khái niệm âm dương lại vay mượn từ các ngôn ngữ phương Nam trước đây. Ví dụ, so sánh ''yang'' với ''giàng'' (trong [[tiếng Mường]]), ''yang sri'' (thần lúa), ''yang Dak'' (thần nước), ''yang Lon'' (thần đất) (trong tiếng của nhiều dân tộc Tây Nguyên); so sánh ''yin'' với ''yana'' ([[tiếng Chàm]] cổ, ví dụ Thiên Yana = mẹ trời), ''ina'' (tiếng Chàm hiện đại), ''inang'' ([[tiếng Indonesia]]), ''nạ'' ([[tiếng Việt]] cổ, ví dụ: nạ ròng = người đàn bà có con, hay tục ngữ Việt Nam: "Con thì ''na'', cá thì nước"),... thì thấy rõ điều đó. Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp "mẹ-cha" và "đất-trời" này, người ta đã mở rộng ra nhiều cặp đối lập phổ biến khác. Đến lượt mình, các cặp này lại là cơ sở để suy ra vô số các cặp mới.
 
=== Trừu tượng hóa âm dương ===
Hàng 50 ⟶ 54:
Triết lý âm dương là cơ sở để xây dựng lên hai hệ thống triết lý khác đó là hệ thống "[[tam tài]], [[ngũ hành]]" và "[[tứ tượng]], [[bát quái]]".
 
Nếu so sánh [[phương Đông]] với [[phương Tây]] thì phương Tây chú trọng đến tư duy [[phân tích]], [[siêu hình]] còn phương Đông chú trọng đến tư duy [[tổng hợp]], [[biện chứng]]. Nhưng nếu xét riêng ở phương Đông thì nếu đi từ bắc xuống nam ta sẽ thấy phía bắc Trung Quốc nặng về phân tích hơn tổng hợp, còn phía nam thì ngược lại, nặng về tổng hợp hơn phân tích. Triết lý âm dương bắt nguồn từ phương Nam, nhưng đối với các dân tộc [[Đông Nam Á]], do tính phân tích yếu nên họ chỉ lại ở tư duy âm dương sơ khai mang tính tổng hợp. Trong khi đó khối [[Dân tộc Việt Nam|Bách Việt]] đã phát triển và hoàn thiện nó. Tổ tiên [[người Hán]] cũng vậy, sau khi tiếp thu triết lý âm dương sơ khai, họ cũng phát triển nó nhưng do năng lực phân tích của họ mạnh hơn năng lực phân tích của người Bách Việt mà từ triết lý âm dương ban đầu, người Bách Việt và người Hán đã xây dựng nên hai hệ thống triết lý khác nhau.
Nếu so sánh [[phương Đông]] với [[phương Tây]] thì phương Tây chú trọng đến tư duy [[phân tích]], [[siêu hình]] còn phương Đông chú trọng đến tư duy [[tổng hợp]], [[biện chứng]].
 
Ở phương Nam, với lối tư duy mạnh về tổng hợp, người Bách Việt đã tạo ra mô hình vũ trụ với số lượng thành tố lẻ (dương): hai sinh ba (tam tài), ba sinh năm (ngũ hành). Chính vì thế mà [[Lão Tử]], một nhà triết học của [[nước Sở]] (thuộc phương Nam) lại cho rằng: "nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Tư duy số lẻ là một trong những nét đặc thù của phương Nam. Trong rất nhiều thành ngữ, tục ngữ [[Việt Nam]], các số lẻ như 1, 3, 5, 7, 9 xuất hiện rất nhiều. Ví dụ: "ba mặt một lời"; "ba vợ, bảy nàng hầu"; "tam sao, thất bản"...
 
Ở phương Bắc, với lối tư duy mạnh về phân tích, người Hán đã gọi âm dương là [[lưỡng nghi]], và bằng cách phân đôi thuần túy mà sinh ra mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng thành tố chẵn (âm). Chính vì vậy [[Kinh Dịch]] trình bày sự hình thành vũ trụ như sau: "lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng" (hai sinh bốn, bốn sinh tám). Người phương Bắc thích dùng số chẵn; ví dụ, "tứ đại", "tứ mã", "tứ trụ",... Lối tư duy như vậy, hoàn toàn không có chỗ cho [[ngũ hành]] - điều này cho thấy, quan niệm cho rằng "âm dương - ngũ hành - bát quái" chỉ là sản phẩm của người Hán có lẽ là một sai lầm.
 
== Ứng dụng trong thực tế ==