Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Lệnh Công”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: General Fixes
n →‎Bối cảnh lịch sử: đánh vần, replaced: Quí → Quý (2)
Dòng 8:
==Sự nghiệp==
===Bối cảnh lịch sử===
Từ năm [[907]] ở [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] khi [[nhà Đường]] mất thì lần lượt nổi lên là các nhà [[nhà Hậu Lương|Hậu Lương]], [[Hậu Đường]], [[Hậu Tấn]], [[Nhà Hán|Hậu Hán]], [[Hậu Chu]] tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ QuíQuý hay là [[Ngũ Đại Thập Quốc|Ngũ Đại]].
 
Năm [[911]], Lưu Cung làm Nam Bình Vương do nhà Hậu Lương phong cho, kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại [[Giao Châu]]. Được ít lâu nhân có việc bất bình với nhà Hậu Lương, Lưu Cung tự xưng đế, quốc hiệu là Đại Việt. Đến năm Đinh Sửu ([[917]]) cải quốc hiệu là Nam Hán.
 
Năm QuíQuý Mùi ([[923]]) Lưu Cung sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ (khi đó chấp nhận làm Tiết độ sứ của nhà Hậu Lương tại Giao Châu mà không thần phục nhà Nam Hán), rồi sai Lý Tiến sang làm thứ sử cùng với Lý Khắc Chính giữ Giao Châu.
 
Năm Tân Mão ([[931]]) Dương Đình Nghệ là tướng của Khúc Hạo ngày trước (cha của Khúc Thừa Mỹ) nổi lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lý Khắc Chính và Lý Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết độ sứ. Được gần 7 năm, Dương Đình Nghệ bị người bộ tướng là Kiều Công Tiễn giết đi mà cướp lấy quyền.