Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bao vây Baghdad (1258)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
GHA-WDAS (thảo luận | đóng góp)
n Bot: performed general fixes, WP:CHECKWIKI error fixes, also loaded scripts written by User:Alphama
Dòng 31:
Baghdad là thủ đô của Đế quốc Abbas trong nhiều thế kỷ, các quân chủ của đế quốc Hồi giáo thứ ba này là hậu duệ của một người chú ruột mang tên [[‘Abbas ibn ‘Abd al-Muttalib|Abbas]] của [[Muhammad]]. Năm 751, dòng Abbas lật đổ [[Nhà Omeyyad|dòng Umayya]] và chuyển trị sở của Khalip (quân chủ) từ [[Damas]] đến Baghdad. Vào thời kỳ đỉnh cao, dân số thành phố đạt xấp xỉ một triệu, có một đạo quân 60.000 binh sĩ bảo vệ. Tuy nhiên, đến giữa thế kỷ 13, quyền lực của dòng Abbas suy thoái, các quân phiệt Turk và Mamluk thường nắm giữ nhiều quyền lực hơn các Khalip. Tuy vậy, thành phố vẫn duy trì ý nghĩa tượng trưng, và vẫn là một nơi giàu có và có văn hóa. Các Khalip bắt đầu kết minh với [[Đế quốc Mông Cổ]] đang bành trướng tại phía đông, và Khalip [[Al-Nasir|an-Nasir li-dini'llah]] (trị vì 1180–1225) có thể đã nố lực kết minh với Thành Cát Tư Hãn khi [[Muhammad II của Khwarezm]] đe dọa tấn công Abbas.<ref>Jack Weatherford ''Genghis Khan and the making of the modern world'', p.135</ref> Có tin đồn<ref>Jack Weatherford '' Genghis Khan and the making of the modern world'', p.136</ref> rằng một số tù nhân Thập tự quân bị biến thành cống phẩm cho đại hãn của Mông Cổ.
 
Theo ''[[Mông Cổ bí sử]]'', Thành Cát Tư Hãn và [[Oa Khoát Đài|Oa Khoát Đài Hãn]] ra lệnh cho tướng quân Xước Nhi Mã Hãn (Chormaqan) tấn công Baghdad.<ref>Sh.Gaadamba ''Mongoliin nuuts tovchoo (1990)'', p.233</ref> Năm 1236, Xước Nhi Mã Hãn lãnh đạo một đạo quân Mông Cổ tới [[Irbil]],<ref>Timothy May ''Chormaqan Noyan'', p.62</ref> đương thời nắm dưới quyền cai trị của Abbas. Các cuộc tấn công tiếp theo nhằm vào Irbil và các khu vực khác của đế quốc diễn ra gần như hàng năm.<ref>Al-Sa'idi,., op. cit., pp. 83, 84, from Ibn al-Fuwati</ref> Some raids were alleged to have reached Baghdad itself,<ref name="Mongol Empire p.2">C. P. Atwood ''Encyclopedia of Mongolia and the Mongol Empire'', p.2</ref> song các cuộc tấn công của người Mông Cổ không phải là luôn giành thắng lợi, khi quân Abbas đánh bại quân ngoại xâm vào năm 1238<ref>Spuler, op. cit., from Ibn al-'Athir, vol. 12, p. 272.</ref> và 1245.<ref>{{citechú thích web|url=http://www.alhassanain.com/english/book/book/history_library/various_books/the_alleged_role_of_nasir_al_din_al_tusi_in_the_fall_of_baghdad/004.html|title=Mongol Plans for Expansion and Sack of Baghdad|work=alhassanain.com}}</ref>
 
Bất chấp các chiến thắng này, Đế quốc Abbas hy vọng đạt được thỏa thuận với người Mông Cổ và đến năm 1241 thì chấp thuận cống nạp hàng năm cho triều đình của đại hãn.<ref name="Mongol Empire p.2"/> Các sứ thần từ Abbas hiện diện tại lễ đăng cơ của [[Quý Do|Quý Do Hãn]] vào năm 1246<ref>Giovanni, da Pian del Carpine (translated by Erik Hildinger) ''The story of the Mongols whom we call the Tartars (1996)'', p. 108</ref> và của [[Mông Kha|Mông Kha Hãn]] vào năm 1251.<ref>http://depts.washington.edu/silkroad/lectures/wulec3.html</ref> Trong thời gian trị vì ngắn của mình, Quý Do Hãn nhất quyết yêu cầu Khalip [[Al-Musta'sim]] hoàn toàn quy phục trước quyền uy của Mông Cổ và đích thân đến [[Karakorum]]. Do Khalip từ chối và các kháng cự khác của Abbas, người Mông Cổ gia tăng các nỗ lực bành trướng quyền uy của mình.
Dòng 38:
Năm 1257, Mông Kha quyết tâm thiết lập quyền lực vững chắc đối với Lưỡng Hà, Syria, và Iran. Đại hãn cho em trại là [[Húc Liệt Ngột]] quyền lực đối với một hãn quốc phụ thuộc là [[Hãn quốc Y Nhi|Y Nhi]], chỉ thị phải buộc các quốc gia Hồi giáo phải quy phục, trong đó có Đế quốc Abbas. Mặc dù không tìm cách phế truất Al-Musta'sim, song Mông Kha lệnh cho Húc Liệt Ngột tàn phá Baghdad nếu Khalip từ chối các yêu sách về đích thân quy phục Húc Liệt Ngột và nộp cống dưới hình thức viện trợ quân sự, nhằm củng cố quân đội của Húc Liệt Ngột trong các chiến dịch chống lại các quốc gia [[Ismaili]] tại Iran ngày nay.
 
Để chuẩn bị cho xâm chiếm, Húc Liệt Ngột gây dựng một lực lượng viễn chinh lớn, bắt một trong mười nam giới trong độ tuổi đi lĩnh trên toàn Đế quốc Mông Cổ, tập hợp được một đạo quân Mông Cổ có thể là đông đảo nhất từng tồn tại với một ước tính là 150.000.<ref>{{citechú thích web|url=http://www.telusplanet.net/dgarneau/euro54.htm|title=European & Asian History|work=telusplanet.net}}</ref> Các tướng quân của đạo quân gồm [[Arghun Agha]], [[Baiju]], [[Buqa Temür]], [[Quách Khản]], và Kitbuqa, cũng như em trai Húc Liệt Ngột là Sunitai và nhiều người khác.<ref>Rashiddudin, ''Histoire des Mongols de la Perse'', E. Quatrieme ed. and trans. (Paris, 1836), p. 352.</ref> Lực lượng cũng được bổ xung từ quân Cơ Đốc giáo, bao gồm của Quốc vương Armenia, một đạo quân Frank từ [[Thân vương quốc Antioch]],<ref>Demurger, 80-81; Demurger 284</ref> và một lực lượng [[Vương quốc Gruzia|Gruzia]] tìm cách báo thù người Abbas Hồi giáo vì các shah của Khwarazm cướp phá thủ đô [[Tbilisi|Tiflis]] nhiều thập niên trước.<ref>Khanbaghi, 60</ref> Khoảng 1.000 pháo thủ người Hán tháp tùng quân đội Mông Cổ,<ref>{{citechú thích booksách |url={{Google books |plainurl=yes |id=BZf_L1V7NLUC |page=173 }} |title=A Short History of the Chinese People
|authorlink=Luther Carrington Goodrich|author=L. Carrington Goodrich|accessdate=2011-11-28 |edition=illustrated |series= |volume= |date= |year=2002 |month= |publisher=Courier Dover Publications |location= |language= |isbn=0-486-42488-X |page=173 |pages= |quote=In the campaigns waged in western Asia (1253-1258) by Jenghis' grandson Hulagu, "a thousand engineers from China had to get themselves ready to serve the catapults, and to be able to cast inflammable substances." One of Hulagu's principal generals in his successful attack against the caliphate of Baghdad was Chinese.}}</ref> cùng với đó là các phụ trợ người Ba Tư và Đột Quyết theo lời của sử gia Ba Tư đương đại [[Ata-Malik Juvayni]].
 
Dòng 44:
 
==Chiếm Baghdad==
Sau khi đánh bại Hashshashin, Hulagu gửi tin cho Al-Musta'sim, yêu cầu chấp thuận do Mông Kha áp đặt. Al-Musta'sim từ chối, phần lớn là do tác động của cố vấn và đại tể tướng Ibn al-Alkami. Các sử gia quy những động cơ khác nhau khiến al-Alkami phản đối quy phục, bao gồm phản bội<ref name=Zaydan>{{citechú bookthích sách|last=Zaydān|first=Jirjī|title=History of Islamic Civilization, Vol. 4|year=1907|publisher=Stephen Austin and Sons, Ltd.|location=Hertford|pages=292|url={{Google books |plainurl=yes |id=DRByAAAAMAAJ |page=292 }} |accessdate=ngày 16 Septembertháng 9 năm 2012}}</ref> và thiếu năng lực,<ref name=Davis>{{citechú thích booksách|last=Davis|first=Paul K.|title=Besieged: 100 Great Sieges from Jericho to Sarajevo|year=2001|publisher=Oxford University Press|location=New York|pages=67}}</ref> và có vẻ là ông nói dối với Khalip về mức độ nghiêm trọng của cuộc xâm lăng, quả quyết với Al-Musta'sim rằng nếu thủ đô của đế quốc gặp nguy hiểm trước một đội quân Mông Cổ, thế giới Hồi giáo sẽ lao đến cứu viện.<ref name="Davis"/>
 
Al-Musta'sim hồi đáp các yêu cầu của Húc Liệt Ngột theo cách thức mà khiến cho tư lệnh người Mông Cổ cảm thấy sự hăm sọa và xúc phạm đủ để ngừng tiếp tục thương lượng,<ref>Nicolle</ref> song ông từ chối tập hợp quân đội để hỗ trợ lực lượng hiện hữu tại Baghdad, cũng không gia cố tường thành. Đến ngày 11 tháng 1, quân Mông Cổ đến khu vực lân cận thành,<ref name="Davis"/> đóng hai bên bờ [[sông Tigris]] nhằm tạo thành một gọng kìm quanh thành phố, và Al-Musta'sim cuối cùng quyết định đối đầu với quân Mông Cổ, phái một đạo quân gồm 20.000 kị binh đi tấn công. Đội kị binh chịu thất bại quyết định trước quân Mông Cổ, các công trình sư của Mông Cổ phá đê dọc sông Tigris và khiến mặt đất bị ngập khu vực ở phía sau quân Abbas, đánh bẫy họ.<ref name="Davis"/>
 
[[FileTập tin:Persian painting of Hülegü’s army attacking city with siege engine.jpg|thumb|Bức tranh Ba Tư (thế kỷ 14) mô tả quân của Húc Liệt Ngột bao vây thành phố]]
 
Ngày 29 tháng 1, quân Mông Cổ bắt đầu bao vây Baghdad, xây dựng một hàng rào chấn song và một hào quanh thành phố. Người Mông Cổ sử dụng các dụng cụ công thành và máy lăng đá, nỗ lực chọc thủng tường thành, và đến ngày 5 tháng 2 thì họ chiếm được một bộ phận quan trọng của thành lũy. Nhận thấy rằng quân của mình ít có cơ hội tái chiếm tường thành, Al-Musta'sim nỗ lực khai thông thương lượng với Húc Liệt Ngột, song bị cự tuyệt. Khoảng 3.000 quý tộc Baghdad cũng nỗ lực thương lượng với Húc Liệt Ngột song họ bị tàn sát.<ref>{{cite book|last=Fattah|first=Hala|title=A Brief History of Iraq|publisher=Checkmark Books|page=101}}</ref> Năm ngày sau đó, tức 10 tháng 2, thành Baghdad đầu hàng, song người Mông Cổ không vào thành cho đến ngày 13, bắt đầu một tuần tàn sát và tàn phá.
 
Ngày 29 tháng 1, quân Mông Cổ bắt đầu bao vây Baghdad, xây dựng một hàng rào chấn song và một hào quanh thành phố. Người Mông Cổ sử dụng các dụng cụ công thành và máy lăng đá, nỗ lực chọc thủng tường thành, và đến ngày 5 tháng 2 thì họ chiếm được một bộ phận quan trọng của thành lũy. Nhận thấy rằng quân của mình ít có cơ hội tái chiếm tường thành, Al-Musta'sim nỗ lực khai thông thương lượng với Húc Liệt Ngột, song bị cự tuyệt. Khoảng 3.000 quý tộc Baghdad cũng nỗ lực thương lượng với Húc Liệt Ngột song họ bị tàn sát.<ref>{{citechú bookthích sách|last=Fattah|first=Hala|title=A Brief History of Iraq|publisher=Checkmark Books|page=101}}</ref> Năm ngày sau đó, tức 10 tháng 2, thành Baghdad đầu hàng, song người Mông Cổ không vào thành cho đến ngày 13, bắt đầu một tuần tàn sát và tàn phá.
 
[[Thể loại:Xung đột năm 1258]]