Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Đình Thứ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, replaced: → (2), Chuẩn uý → Chuẩn úy, Thiếu uý → Thiếu úy, Trung uý → Trung úy, Cộng hoà → Cộng hòa (2) using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Lam Sơn Phan Đình Thứ''' tự '''Lam Sơn'''[[*]] (1919-2002), nguyên là một Tướngtướng lãnh bộ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Ông Xuấtxuất thân từ một trường Võ bị Lục quân của Pháp và phục vụ trong Quân đội Viễn chinh Pháp cho đến năm 1950 mới hồi hương. NguyênÔng nguyên là Chỉ huy Trưởng [[Trường Bộ binh Thủ Đức|Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức]], nguyên Tư Lệnh [[Lực lượng đặc biệt|Lực lượng Đặc biệt]]<ref>Ông làm Tư lệnh lực lượng này 2 lần vào năm 1964 và năm 1969</ref>, nguyên Tư lệnh binh chủng [[Lực lượng Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa|Biệt Động Quân]]<ref>(1960). Lam Sơn là tư lệnh thứ 3 của binh chủng này</ref>. ''(Là Tư lệnh thứ 3 của Binhbinh chủng này sau 2 Thiếu tá [[Lữ Đình Sơn]] Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]])''.
==Tiểu sử & binh nghiệp==
Ông sinh ngày 22/-4/-1919 trong một gia đình quan lại tại [[Thừa Thiên]][[*]], Trung phần Việt Nam và lớn lên tại [[Huế]]. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông phải vừa tựđi họclàm, vừa đitự làmhọc. Ông tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp chương trình Pháp tại Huế với văn bằng Thành chung.
 
Năm 1937: Ông giatình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Viễn chinh Pháp thuộc Binhbinh chủng Pháo binh tại Sài Gòn, mang số quân: 39/200.308. Năm 1940:, ông được Chuyểnchuyển qua ngành thông ngôn, phục vụ tại Hạt Charentes, Pháp.
 
Năm 1943: ÔngĐầu năm, ông được đơn vị cử theo học Trườngtrường Võ bị Lục quân Pháp tại Bắc Phi. CùngTháng 6 cùng năm, tốt nghiệp với cấp hàm [[Chuẩn úy]]. Sau đó, ông được cử đi học bổ túc ở trường Chiến tranh Viễn đông của Anh tại Ấn Độ, mãn khoá ông được thăng cấp [[Thiếu úy]] và phục vụ cho Quân đội Viễn chinh Pháp tại các chiến trường Tunisia, Algérie. Qua năm 1944, ông theo đơn vị trở về Đông Dương đóng quân ở Lào.
 
Năm 1944: Ông được cử theo học bổ túc ở Trường Chiến tranh Viễn đông của Anh tại Ấn Độ. Mãn khoá ông được thăng cấp [[Thiếu úy]]. Sau đó theo đơn vị sang phục vụ ở Lào.
 
Năm 1945: Ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được giao nhiệm vụ chỉ huy một toán biệt kích đa quốc gia, nhảy xuống [[Cánh đồng Chum]], Lào để giải giới quân Nhật.
==Quân đội Quốc gia==
Năm 1950: Ông được thăng cấp [[Đại úy]] trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Cùng năm này, Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập ''(tiền thân của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] sau này) thành lập'', ông hồi hương và được chuyển sang Quân đội Quốc gia với cấp bậc [[Đại úy]], phục vụ tại Quảng trịTrị. NămQua năm 1954:, ông được thăng lên cấp [[Thiếu tá]] và được cử đi học khóa Trung đoàn Trưởng tại Trung tâm nghiên cứu Quân sự, Hà Nội ''(tiền thân của Trườngtrường Chỉ huy & Tham mưu)''.<ref>Cùng Học cùng khóa với ông còn có Thiếu tá [[Nguyễn Văn Thiệu,]] và Đại úy [[Nguyễn Chánh Thi</ref>]].
==Quân đội VNCHViệt nam Cộng hoà==
Năm 1955: ThăngQuân đội quốc gia được cải danh thành [[Quân lực Việt Nam Cộng hoà|Quân đội Việt Nam Cộng hoà]], ông được thăng cấp [[Trung tá]] được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 16 Khinhkhinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 23 Bộbộ binh)''đóng tại Đông Hà, Quảng Trị. NămCuối năm 1957:, Bànông giaođược chứclệnh bàn lệnhgiao Sư đoàn 16 lại cho Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]]. Qua đầu năm 1958, ông được thăng cấp [[Đại tá]] thay thế Đại tá [[ Lâm Văn Phát]] làm Tư lệnh Sư đoàn 13 khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 21 bộ binh)'', đồn trú tại Bến Kéo, Tây Ninh. Cuối năm này, ông được cử đi du học khoá Chỉ huy & Tham mưu tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1959, mãn khoá về nước, ông được cử đi làm sĩ quan Tuỳ viên Quân sự tại Manila, Phi Luật Tân.
 
Năm 1960: Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông được cử thay thế Thiếu tá [[Phan Trong Chinh]] làm Chỉ huy trưởng Binhbinh chủng Biệt động quân. NămQua 1961:giữa Đạitháng tá thực thụ. Qua5 năm 1962:, Giữaông thángnhận 5,lệnh bàn giao chứcBộ Chỉchỉ huy trưởng Biệt động quân lại cho Đại tá [[Tôn Thất Xứng]]. Cùng thời điểm đi nhận chức Chỉ huy trưởng Liên trường Võ khoa Thủ Đức, thay thế Thiếu tướng [[Hồ Văn Tố]] vừa từ trần. Ông đã sáng kiến ghi thêm 4 chữ "Cư An Tư Nguy" trên phù hiệu của Trường ''(có nghĩa là: Muốn sống yên ổn thì phải nghĩ đến lúc hiểm nguy. Suy rộng ra: Muốn hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh)''. ThờiTrong thời gian đương nhiệm, đã tổ chức lễ mãn khoá cho 3 khoá sĩ quan trừ bị là khoá 12 Trần Hưng Đạo, khoá 13 Ấp Chiến Lược và khoá 14 Nhân Trí Dũng.
Năm 1958: Thăng cấp [[Đại tá]][[*]] nhiệm chức, thay thế Đại tá [[Lâm Văn Phát]] Tư lệnh Sư đoàn 13 Khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 21 Bộ binh)'' tại Bến Kéo, Tây Ninh. Cuối năm du học khoá Chỉ huy & Tham mưu tại Hoa Kỳ. Năm 1959: Mãn khoá về nước được cử đi làm Tuỳ viên Quân sự tại Philippines.
 
Năm 1963: Đầu tháng 8, Liên trường Võ khoa Thủ Đức được cải danh thành Trườngrường quan trừTrừ bị Thủ Đức ''(danh hiệu cũ lúc mới thành lập)''. Đầu tháng 11 cùng năm, được lệnh bàn giao chức Chỉ huy trưởng trường Thủ Đức lại cho Thiếu tướng [[Trần Ngọc Tám]].
Năm 1960: Trung tuần tháng 11, thay thế Thiếu tá [[Phan Trong Chinh]] làm Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân. Năm 1961: Đại tá thực thụ. Qua năm 1962: Giữa tháng 5, bàn giao chức Chỉ huy trưởng Biệt động quân lại cho Đại tá [[Tôn Thất Xứng]]. Cùng thời điểm đi nhận chức Chỉ huy trưởng Liên trường Võ khoa Thủ Đức, thay thế Thiếu tướng [[Hồ Văn Tố]] vừa từ trần. Ông đã sáng kiến ghi thêm 4 chữ "Cư An Tư Nguy" trên phù hiệu của Trường ''(có nghĩa là: Muốn sống yên ổn thì phải nghĩ đến lúc hiểm nguy. Suy rộng ra: Muốn hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh)''. Thời gian đương nhiệm, đã tổ chức lễ mãn khoá cho 3 khoá sĩ quan trừ bị là khoá 12 Trần Hưng Đạo, khoá 13 Ấp Chiến Lược và khoá 14 Nhân Trí Dũng.
 
Từ nămNăm 1964-1969: PhụcTrung tuần tháng 2, Ông được cử làm Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Trung tướng [[Lê Văn Nghiêm]] đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự. Tháng 8 cùng năm, bàn giao chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá [[Đoàn Văn Quảng]] ''(nguyên Chỉ huy trưởng Biệt động quân Vùng 3 Chiến thuật)''. Sau đó ông được chuyển đến phục vụ tạitrong Tổng cục Chiến tranh Chính trị với chức vụ Tổng cục phó đặc trách về Thể dục & Thể thao. Tháng 9/ năm 1969:, Táiông được tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]] đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. ÔngThời điểm này, ông đã sangsáng kiến xây dựng "Nghĩa Dũng đài" trước trại Chương Dương, Bộ Tư lệnh lựcLực lượng Đặc biệt ở Nha Trang để tưởng niệm các anh hùng tử sĩ của binh chủng đã hy sinh vì Tổ Quốc.
Năm 1963: Đầu tháng 8, Liên trường Võ khoa Thủ Đức được cải danh thành Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức ''(danh hiệu cũ lúc mới thành lập)''. Đầu tháng 11, bàn giao chức Chỉ huy trưởng lại cho Thiếu tướng [[Trần Ngọc Tám]].
 
Năm 19641970: TrungĐầu tuầnnăm, thángbàn 2,giao chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thaylại thếcho TrungThiếu tướng [[Phạm Văn NghiêmPhú]]. điCùng làmthời Chỉđiểm huyđi trưởngnhận Trườngchức Đạiphụ học Quân sự.lệnh ThángBiệt 8khu cùngThủ năm,đô. bànGiữa giaonăm nhận chức Tư lệnh Lựcphó lượnglãnh Đặcthổ biệtQuân lạiđoàn choIII Đại tá [[Đoàn Văn Quảng]] ''(nguyênkiêm Chỉ huy trưởng BiệtĐịa độngphương quân Vùng& Nghĩa quân Quân khu 3. Qua năm 1971, ông được vinh thăng cấp [[Chuẩn tướng]] Chiếntại thuật)nhiệm.''
 
Năm 1972: ĐượcÔng dược bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng ''(lại một lần nữa thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]])''. Tướng Quảng được điều về làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung.
Từ năm 1964-1969: Phục vụ tại Tổng cục Chiến tranh Chính trị đặc trách về Thể dục & Thể thao. Tháng 9/1969: Tái nhiệm chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]] đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. Ông đã sang kiến xây dựng "Nghĩa Dũng đài" trước trại Chương Dương, Bộ Tư lệnh lực lượng Đặc biệt ở Nha Trang để tưởng niệm các anh hùng tử sĩ của binh chủng đã hy sinh vì Tổ Quốc.
*''Vào một buổi tối tháng 9 năm 1972, tại Tổng hành dinh Quân đoàn II ở Pleiku, một viên Trung sĩ người Thượng tinh thần bất ổn do uống rượu say đứng ở cổng, tay cầm lựu đạn đã rút chốt chờ tướng Lam Sơn về để ám sát. Quân cảnh đến can thiệp đương sự không chịu. Khi tướng Lam Sơn về khuyến cáo cũng không nghe. Tướng Lam Sơn đã dùng súng nấp ở sau bờ tường bắn, đương sự ngã quỵ khiến lựu đạn nổ bị trọng thương và sau đó tử vong.
 
Sau sự việc trên, ông bị đưa về giam tại Chí Hoà để điều tra và ngày 29/11 ra Toà án Mặt trận Quân sự và bị xử án 5 năm tù treo về tội cố ý đả thương và dẫn đến tử vong của viên Trung sĩ nói trên. Qua năm 1973, ông bị buộc phải giải ngũ.
Năm 1970: Đầu năm, bàn giao chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Thiếu tướng [[Phạm Văn Phú]]. Cùng thời điểm đi nhận chức phụ tá Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Giữa năm nhận chức Tư lệnh phó lãnh thổ Quân đoàn III kiêm Chỉ huy trưởng Địa phương quân & nghĩa quân Vùng 3 Chiến thuật. Năm 1971: Vinh thăng [[Chuẩn tướng]][[*]] nhiệm chức.
 
Năm 1972: Được bổ nhiệm chức Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng ''(lại một lần nữa thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]])''. Tướng Quảng về làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung.
 
Qua năm 1973 ông được giải ngũ, sau khi bị lãnh án 5 năm tù treo về tội cố ý đả thương và dẫn đến tử vong một viên Trung sĩ Biệt động quân người Thượng tại Pleiku.
 
Trong cuộc đời binh nghiệp ông được thưởng nhiều huy, huân chượng của Việt Nam Cộng hòa, Pháp, Mỹ và đặc biệt là Lào.<ref>'''Huy Chương Việt Nam Cộng hòa:'''
Hàng 40 ⟶ 35:
</ref>
==1975==
Sau [[Sựsự kiện 30 tháng 4 năm 1975|Sự kiện 30 tháng 4, 1975]], ông bị đưa đi cải tạo<ref>Cũngcũng như 28các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa khác và bị đưa ra miền Bắc Việt Nam tập trung ở trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh. Khi đi cải tạo, vì bị mất liên lạc với gia đình, Lam Sơnông không được thăm nuôi, nên được gọi là Tướngtướng mồ côi ''(Cùng cảnh ngộ này là tướng Dương Văn Đức và tướng Hồ Trung Hậu)''. Mười ba năm sau (1988) ông được trả tự do và được lên danh sách đi Mỹ theo chương trình H.O, nhưng ông từ chối vì một phần muốn ở lại quê hương, một phần không muốn xa 3 người con đã có gia đình không được đi theo chương trình HO. Sau đó, với sự bảo trợ của Bộ Tư lệnh Nhảy dù Pháp, chính phủ Pháp đã đồng ý cho cả gia đình của ông qua Pháp vào năm 1989. Năm 1995, Lam Sơn một mình trở về sống những chuỗi ngày còn lại ở quê hương Việt Nam và mất tại Tp HCM (Sài Gòn) vào ngày 23 tháng 07 năm 2002.
==Gia đình==
</ref> tại Hà Nam Ninh. Mười ba năm sau (1988) được trả tự do và được lên danh sách đi Mỹ theo chương trình HO, nhưng ông từ chối vì một phần muốn ở lại quê hương, một phần không muốn xa 3 người con đã có gia đình không được đi theo chương trình HO. Sau đó, với sự bảo trợ của Bộ Tư lệnh Nhảy dù Pháp, chính phủ Pháp đã đồng ý cho cả gia đình của ông qua Pháp vào năm 1989. Năm 1995, Lam Sơn một mình trở về sống những chuỗi ngày còn lại ở quê hương Việt Nam và mất tại Sài Gòn vào ngày 23 tháng 07 năm 2002
Từ thời gian ông phục vụ ở Quân đội Viễn chinh Pháp đóng quân ở Lào ''(lập gia đình với người vợ đầu tiên tại Lào và có người con trai đầu lòng đặt tên là Phan Đình Lam Sơn)'' cho đến sau này, ông có tất cả 6 người vợ và có 10 người con gồm: 7 trai, 3 gái.
 
==Giai thoại==
Hàng 52 ⟶ 48:
Năm 1962, khi làm Chỉ huy Trưởng [[Trường Bộ binh Thủ Đức]], trong một buổi duyệt binh thường lệ, viên Đại tá cố vấn Mỹ đi cùng với Đại tá Lam Sơn bất ngờ dừng lại, đưa ngón tay chọc vào đầu nòng súng khẩu Garant M1 của một học viên sĩ quan để kiểm tra vũ khí. Ngón tay của ông ta dính đầy dầu chùi súng, cho rằng, người học viên sĩ quan này không lau chùi vũ khí theo đúng quy định, ông ta đưa ngón tay út dính dầu quệt vào mặt anh ta. Đang đứng bên cạnh, Lam Sơn cho viên cố vấn Mỹ một cái tát với lời cảnh cáo: "Đừng bao giờ hành động như thế với bất cứ người lính nào. Nếu họ có lỗi, ông có thể phạt họ theo quân kỷ. Rõ chưa?"
==Tham khảo==
* Sách '''''"Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa"''''' Trần Ngọc Thống &, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thuỵ 2011.
 
==Chú thích==
*[[*]]'''''Có bài viết: Tướng Phan Đình Thứ sinh năm 1916 tại Hà Tĩnh. Thăng cấp Đại tá năm 1956 và cấp Chuẩn tướng năm 1972. Bổ sung theo sách ghi trên vì soạn giả là những sĩ quan cao cấp từng phục vụ ở Trung tâm hồ sơ cá nhân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
 
[[*]] ''Tên gọi '''Lam Sơn''' là ông lấy tên người con trai trưởng của ông.
{{Tham khảo}}
 
Hàng 63 ⟶ 61:
[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Cựu binh Quân đội Thuộc địa Pháp]]
[[Thể loại:Người Huế, Thừa Thiên]]
[[Thể loại:Sinh 1916]]
[[Thể loại:Mất 2002]]