Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đàm Luân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor
Dòng 2:
 
==Đánh dẹp Uy khấu, an định miền nam==
Năm [[Gia Tĩnh Đế|Gia Tĩnh]] thứ 23 (1544), Luân đỗ tiến sĩ, được trừ chức [[Nam Kinh]] Lễ bộ chủ sự, trải qua chức vụ Chức Phương lang trung, thăng [[Đài Châu]] tri phủ. Luân tính trầm nghị, hiểu việc binh. Bấy giờ đông nam có nạn Uy khấu đã 4 năm, triều đình bàn bạc việc huấn luyện hương binh chống giặc. Tham tướng Thích Kế Quang xin hẹn 3 năm thì có thể dùng binh, Luân cũng huấn luyện ngàn người, lập ra phép Thúc ngũ <ref>Nguyên văn: 束伍, (''Thúc: Buộc, bó lại; Ngũ: Năm, tên số đếm''), là phép trị quân (ước thúc binh sĩ). '''[[Úy Liễu tử]] - Thúc ngũ lệnh''': “''Lệnh Thúc ngũ nói rằng: 5 người làm 1 ngũ, dùng chung 1 thẻ, nộp ở chỗ tướng lại.''”</ref>, từ bì tướng trở xuống chịu tiết chế theo cấp bậc. Sau khi đội quân này được chia đếm rõ ràng, tiến dừng như một, không lâu sau đã trở nên tinh nhuệ. Uy khấu xâm phạm Sách Phổ, Luân tự làm tướng đi đánh, 3 trận thắng cả 3. Uy khấu lại từ Tùng Môn, Thiền Hồ cướp bóc 6 huyện bên cạnh, tiến vây Đài Châu, không hạ được bỏ đi; chuyển sang cướp bóc [[Tiên Cư]], [[Lâm Hải]]. Luân bắt chém bằng sạch, được tiến làm Hải đạo phó sứ. Luân mộ thêm con nhà tử tế ở Chiết Đông để dạy dỗ họ, thì Thích Kế Quang đã luyện binh đúng kỳ hẹn, nên Luân nhân đó thu dùng họ và bỏ những binh khách không chịu tuân theo sự điều động. Uy khấu từ [[Tượng Sơn, Ninh Ba|Tượng Sơn]] chợt đến Đài Châu, Luân liên tiếp phá địch ở Mã Cương, Hà Gia Thạch Lãm, lại cùng Kế Quang phá địch ở Cát Phụ, Nam Loan. Luân được gia chức Hữu tham chánh, gặp lúc có tang nên rời chức; nhờ thượng thư [[Dương Bác]] tiến cử nên được khởi dùng, lại nắm binh sĩ [[Chiết Giang]], tham gia đánh dẹp nghĩa quân của người [[Nhiêu Bình]] là [[Lâm Triều Hi]]. Triều Hi tấn công Trình Hương. [[Vũ Bình]] tri huyền [[Từ Phủ Tể]] cố thủ rồi tìm cách ly gián nghĩa quân. Triều Hi sợ hãi bỏ chạy, Luân cùng quân đội Quảng Đông đuổi theo, bắt được. Sau đó luânLuân được đổi làm quan ở Phúc Kiến, xin tiếp tục chịu tang nên rời chức.
 
Thích Kế Quang đã quét sạch [[Chiết Giang|Chiết Đông]], Uy khấu chuyển vào [[Phúc Kiến]]. Từ Phúc Ninh Phủ Phúc Ninh đời Minh bao gồm các huyện [[Hà Phố]], [[Phúc An]], [[Ninh Đức]], [[Phúc Đỉnh]] đến [[Chương Châu|Chương]], [[Tuyền Châu|Tuyền]], ngàn dặm bị bọn chúng xới lên, [[Thích gia quân]] dần dẹp yên được. Nhưng họ lui về, Uy khấu lại xâm phạm [[Thiệu Vũ, Nam Bình|Thiệu Vũ]], chiếm Hưng Hóa <ref>Phủ Hưng Hóa đời Minh vốn có 3 huyện [[Phủ Điền]], [[Tiên Du]], Hưng Hóa. Đến năm 1448, huyện Hưng Hóa bị phế, đất đai được chia cho 2 huyện còn lại, nhiều tài liệu vẫn quen dùng tên gọi Hưng Hóa cho huyện Phủ Điền</ref>. Mùa xuân năm thứ 42 (1563), Luân được triều đình tái khởi dùng, cất nhắc làm Hữu thiêm đô ngự sử, tuần phủ Phúc Kiến. Uy khấu đồn trú thành Khi Đầu, đô chỉ huy Âu Dương Thâm trúng mai phục mà chết; Uy khấu thừa thắng chiếm cứ Bình Hải Vệ, lấy mất [[Chính Hòa|Chánh Hòa]], [[Thọ Ninh]], chẹn các lối ra biển làm kế quay về. Luân dựng công sự chẹn đường, Uy khấu không thể đi tiếp, dời doanh trại đến Chử Lâm. Sau khi Thích Kế Quang đến, Luân tự mình nắm Trung quân, điều động các Tổng binh quan Lưu Hiển, Du Đại Du nắm 2 cánh quân tả, hữu; lệnh cho Kế Quang đem trung quân xông vào lũy địch, 2 cánh tả, hữu theo sau. Quân Minh đại phá Uy khấu, giành lại 1 phủ, 2 huyện. Có chiếu gia cho Luân chức Hữu phó đô ngự sử. Luân cho rằng khu vực Duyên, Kiến, Đinh, Thiệu bị tàn phá rất nặng, xin hoãn thu thuế. Luân lại khảo xét cựu chế, dựng 5 thủy trại, chẹn hải khẩu, tiến cử Kế Quang làm Tổng binh quan để trấn thủ. Uy khấu lại vây [[Tiên Du]], Luân, Kế Quang đại phá địch dưới thành. Sau đó Thích gia quân phá Uy khấu ở Vương Thương Bình, Thái Phi Lĩnh, tàn dư bọn cướp bỏ chạy, khu vực [[Quảng Đông]] đều an định. Luân dâng sớ xin trở về chịu tang, [[Minh Thế Tông]] đồng ý.