Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Indianapolis (CA-35)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
OctraBot (thảo luận | đóng góp)
n Thay thế ‘(?mi)\{\{(Liên kết chọn lọc|Link FA)\|.+?\}\}\n?’ bằng ‘’.
n AlphamaEditor
Dòng 106:
Sau khi hoàn tất việc sửa chữa và đại tu, ''Indianapolis'' được lệnh đi đến đảo Tinian, mang theo các linh kiện và nguyên liệu [[Urani]]um cho trái [[vũ khí hạt nhân|bom nguyên tử]] ''[[Little Boy]]'' mà sau đó sẽ được ném xuống [[Hiroshima]]. ''Indianapolis'' rời San Francisco vào ngày [[16 tháng 7]], đi đến Trân Châu Cảng vào ngày [[19 tháng 7]], rồi lại lên đường một mình không tàu hộ tống đến Tinian vào ngày [[26 tháng 7]]. Sau đó ''Indianapolis'' được gửi đến Guam, nơi một số thành viên thủy thủ đoàn mãn hạn phục vụ được thay thế bởi các thủy thủ khác. Rời Guam ngày [[28 tháng 7]], nó bắt đầu di chuyển hướng đến [[Leyte (đảo)|Leyte]] nơi dự định tiến hành huấn luyện trước khi tiếp tục đi đến Okinawa gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 95 dưới quyền Phó Đô đốc [[Jesse B. Oldendorf]]. Lúc 00 giờ 14 phút ngày [[30 tháng 7]], nó bị đánh trúng hai quả ngư lôi từ tàu ngầm Nhật ''[[I-58 (tàu ngầm Nhật)|I-58]]'' dưới quyền chỉ huy của [[Mochitsura Hashimoto]]. Các vụ nổ đã gây hư hại nghiêm trọng, khiến ''Indianapolis'' bị chìm chỉ trong 12 phút. Chiếc tàu ngầm Nhật đã tiếp cận mà không bị phát hiện trước khi tấn công vì chiếc tàu chiến Mỹ không có các thiết bị dò tìm tàu ngầm hiệu quả.
 
Khoảng 300 người trong số 1.196 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng do vụ chìm tàu. Số 880 người còn lại, với một ít bè cứu sinh và nhiều người thậm chí không có áo phao, nổi trên mặt nước chờ đợi được cứu vớt.<ref>{{chú thích web | url=http://www.history.navy.mil/faqs/faq30-5.htm | title=Recollections of the sinking of USS Indianapolis (CA-35) by CAPT Lewis L. Haynes, MC (Medical Corps) (Ret.), the senior medical officer on board the ship. | publisher=Navy Medicine | author=Lewis L. Haynes | date=Jul.-Aug. 1995 | accessdate=ngày 4 tháng 4 năm 2009-04-04}}</ref> Tuy nhiên, các cấp chỉ huy Hải quân đã không nhận được tin tức gì về việc nó bị đánh chìm, do việc nó không tới được điểm đến vào ngày dự định không được ghi nhận và báo cáo. Những người còn sống sót chỉ được phát hiện sau đó bốn ngày rưỡi, lúc 10 giờ 25 phút ngày [[2 tháng 8]] bởi phi công Đại úy Wilbur (Chuck) Gwinn và phi công phụ Đại úy Warren Colwell trong một chuyến bay tuần tra thường lệ.<ref name="proceedings">Marks (tháng 4 năm 1981) trang 48-50</ref> Chỉ có 321 người được vớt lên khỏi nước còn sống, và sau cùng chỉ còn 316 người sống sót. Họ bị thiếu hụt nước và thực phẩm, một số tìm được ít khẩu phần và đồ hộp trong các mảnh vụn trôi nổi, trong khi phải chịu đựng tình trạng [[giảm nhiệt]], [[mất nước]], [[ngộ độc muối]], [[phơi nắng]], [[đói]] và bị cá mập tấn công, trong khi một số bị những người khác tấn công trong những tình trạng [[suy giảm trí nhớ|mất trí]], [[mê sảng]] và [[ảo giác]] khác nhau.<ref>In Harm's Way: The Sinking of the USS Indianapolis and the Extraordinary Story of Its Survivors</ref> Kênh truyền hình ''[[Discovery Channel]]'' khẳng định việc chiếc ''Indianapolis'' bị đắm đã đưa đến một trong những cuộc tấn công của cá mập nhắm vào con người lớn nhất trong lịch sử, do loài [[cá mập mũi trắng đại dương]] thực hiện. Chương trình này cũng cho rằng hầu hết các trường hợp thiệt mạng của ''Indianapolis'' đều do phơi nắng, ngộ độc muối và [[khát nước]], và xác những người chết bị cá mập lôi đi.
 
Gwinn lập tức cho thả một bè cứu sinh và một máy phát sóng vô tuyến. Mọi đơn vị không lực và hải quân có khả năng hoạt động ứng cứu đều được cho tách ra đi đến hiện trường ngay lập tức. Một thủy phi cơ [[Consolidated PBY Catalina|PBY Catalina]] do Đại úy R. Adrian Marks được gửi đến để trợ giúp và báo cáo.<ref name="proceedings"/> Trên đường bay đến nơi xảy ra sự cố, Marks bay bên trên tàu khu trục hộ tống ''[[USS Cecil J. Doyle (DE-368)|Cecil J. Doyle]]'' và đã ra tín hiệu cho thuyền trưởng của nó, Bộ trưởng hải quân Hoa Kỳ tương lai, Đại tá Hải quân [[W. Graham Claytor, Jr.]] về tình trạng khẩn cấp. Bằng sáng kiến của riêng mình, Claytor quyết định chuyển hướng đến nơi xảy ra tai nạn.
Dòng 120:
Ngay trước lúc xảy ra cuộc tấn công, biển động trung bình, và tầm nhìn dao động nhưng nhìn chung là xấu. ''Indianapolis'' di chuyển ở tốc độ 31,5&nbsp;km/h (17 knot). Khi con tàu không đến được Leyte vào ngày [[31 tháng 7]] theo lịch trình, đã không có báo cáo nào về việc con tàu bị chậm trễ. Đó là do một sự hiểu nhầm trong [[Hệ thống Báo cáo Di chuyển]].
 
Các bảng sơ đồ hành quân được lưu giữ tại các bộ chỉ huy của Tư lệnh Mariana tại Guam và của Tư lệnh Mặt trận biển Philippine tại Leyte. Trên các sơ đồ này, vị trí của mọi con tàu mà bộ tư lệnh quan tâm đều được đánh dấu. Tuy nhiên, đối với những tàu chiến lớn như cỡ ''Indianapolis'', người ta giả định là con tàu sẽ đi tới điểm đến đúng giờ, trừ khi có báo cáo khác. Do đó, vị trí của chúng chỉ dựa trên suy luận mà không căn cứ vào báo cáo. Vào ngày [[31 tháng 7]], khi nó được cho là đã đến Leyte, ''Indianapolis'' được rút khỏi sơ đồ hành quân tại bộ chỉ huy của Tư lệnh Mariana. Nó cũng được ghi nhận là đã đến Leyte bởi bộ chỉ huy của Tư lệnh Mặt trận biển Philippine. Đại úy Hải quân Stuart B. Gibson, Sĩ quan Hành quân dưới quyền Tư lệnh cảng tại Tacloban, là sĩ quan chịu trách nhiệm theo dõi sự di chuyển của ''Indianapolis''. Việc con tàu không có mặt đúng hạn lập tức được Đại úy Gibson biết đến, nhưng đã không điều tra sự việc và không báo cáo ngay lập tức vấn đề này cho cấp trên.<ref>{{chú thích web | url=http://www.history.navy.mil/faqs/faq30-3.htm | title=The Sinking of USS Indianapolis: Navy Department Press Release, Narrative of the Circumstances of the Loss of USS Indianapolis, 23 tháng 2 năm 1946 | publisher=US Navy | date=23 tháng 2 năm 1946 | accessdate=2008-06-ngày 16 tháng 6 năm 2008}}</ref>
 
''Indianapolis'' đã gửi tín hiệu cầu cứu trước khi chìm, và ba trạm đã nhận được tín hiệu này, nhưng đã không thực hiện bất kỳ hành động nào. Một viên chỉ huy uống rượu, người khác ra lệnh cho thuộc cấp không được quấy rầy và một người thứ ba cho đó là trò đùa của quân Nhật.<ref>{{chú thích web | url=http://findarticles.com/p/articles/mi_m1571/is_/ai_62650113 | title=For The Good of the Navy | publisher=Insight on the News | author=Timothy W. Maier | date=5 tháng 6 năm 2000 | accessdate=2008-07-ngày 13 tháng 7 năm 2008|archiveurl=http://archive.is/723U|archivedate=2012-07-ngày 13 tháng 7 năm 2012}}</ref> Trong một thời gian dài, Hải quân đã phủ nhận việc tín hiệu cầu cứu đã được gửi đi. Việc thu nhận được tín hiệu cầu cứu chỉ được đưa ra ánh sáng sau khi công bố các tài liệu hết hạn bảo mật.
 
=== Diễn biến tiếp theo ===