Khác biệt giữa bản sửa đổi của “It's Not Me, It's You”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, replaced: → (60), → (132) using AWB
n AlphamaEditor, thêm thể loại, Excuted time: 00:00:31.4061403
Dòng 51:
 
==Thông tin==
Tháng 4 năm 2008, Allen tuyên bố rằng cô sẽ có một "hướng đi mới" trong album tới.<ref>{{chú thích web|url=http://www.lilyallenmusic.com/emi-site/site.php?page=blog&item=1734415|title=Yagga Yo|publisher=Lily Allen official site blog archive}}</ref> Một năm sau, trong số ra tháng 4 năm 2009 của tờ Teen Vogue, cô đã mô tả về âm hưởng của album mới là "khá vui nhộn" và có "rất nhiều thể loại nhạc khác nhau như nhạc đồng quê, jazz và điện tử". Cô tiếp tục nói rằng, "Tôi muốn làm một điều gì đó có thể nhảy được, làm những buổi biểu diễn thêm thú vị cho tôi và cho người xem".<ref>{{chú thích web|title=Total Request|work=Teen Vogue|url=http://www.teenvogue.com/industry/2009/03/spring-music-preview?slide=4|accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
 
Allen đã thu âm phần lớn album của mình tại Eagle Rock Studios ở Los Angeles với nhà sản xuất [[Greg Kurstin]].<ref name=release>[http://www.nme.com/news/lily-allen/40732 Lily Allen announces US release of second album]. [[NME]], 29 tháng 10 năm 2008.</ref><ref name=naughty>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/lily-allen/37790|title=Lily Allen gets 'Naughty' on new album|publisher=[[NME]]|date = ngày 1 tháng 7 năm 2008-07-01 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref> Họ bắt đầu việc thu âm vào mùa thu 2007 và Allen đã phát biểu:<blockquote>Chúng tôi quyết định thử và làm ra những âm thanh lớn hơn, nhiều những ca khúc hay hơn, những ca khúc thật sự. Tôi muốn làm việc với một người từ đầu đến cuối để để công việc được thống nhất. Tôi muốn nó nguyên vẹn. Tôi nhớ ca khúc đầu tiên chúng tôi thực hiện là "I Could Say", nó tạo cảm hứng cho cả album. Tôi nghĩ rằng tôi đã trưởng thành hơn một chút và tôi hi vọng điều đó sẽ ảnh hưởng đến album của tôi.<ref>{{chú thích web|url=http://www.mtvasia.com/Music/FeaturedArtist/LilyAllen/main.html|title=Lily Allen|publisher=[[MTV châu Á]]}}</ref><ref>
{{chú thích báo
|tác giả= Vĩnh Ngọc
Dòng 64:
 
===Các bản demo MySpace===
Trước khi phát hành album, Allen đã đăng một số demo trên trang [[Myspace|MySpace]] của cô.<ref>{{chú thích web|url=http://www.blender.com/IntheStudioLilyAllen/articles/42264.aspx|title=In the Studio: Lily Allen|last=Romano|first=Tricia|date =2008- ngày 1 tháng 10-01 năm 2008 |work=Blender|accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref> Hai ca khúc đầu tiên xuất hiện là "I Could Say" và "I Don't Know" vào 20 tháng 3 năm 2008, và ca khúc thứ hai sau này đã được đổi tên và phát hành làm đĩa đơn mở đầu cho album, "[[The Fear (bài hát)|The Fear]]". Dựa trên hai demo đầu tiên, [[Digital Spy]] mô tả hướng đi nghệ thuật của cô là trưởng thành hơn, có suy nghĩ hơn và điện tử hơn.<ref>{{chú thích web|url=http://www.digitalspy.co.uk/music/a94375/are-lily-allens-new-songs-any-good.html|title=Are Lily Allen's new songs any good?|author=Nick Levine|publisher=[[Digital Spy]]|date =2008-04- ngày 22 tháng 4 năm 2008 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
 
Một ca khúc thứ ba từng gặp những nghi ngại về nhắc đến một vấn đề chính trị đã được đăng sau đó, với tựa đề "Guess Who Batman" và sau đó "Get With the Brogram", cuối cùng là "GWB". Do những cái tên đều có cùng những chữ cái viết hoa như [[George W. Bush]], ca khúc được cho là sự phản đối của Allen về chính sách chiến tranh của ông. Tuy vậy, Allen đã viết, "Bài hát này không tấn công trực tiếp đến ai, nó nguyên gốc chỉ viết về [[Đảng quốc gia Anh|BNP]] ở Anh nhưng sau đó tôi cảm thấy chuyện này có liên quan đến nhiều việc khác ở khắp nơi. Chúng ta là giới trẻ, chúng ta có thể làm nguội tương lai của chúng ta, nó đến với chúng ta."<ref>{{chú thích web|url=http://www.dose.ca/music/story.html?id=3ce96f2d-0d7b-420a-a211-9452548df554|title=Lily Allen 'Makes Coolness for our Future' -- whatever that means -- with New Track|author=Leah Collins|publisher=Dose.ca|date =2008-06- ngày 23 tháng 6 năm 2008 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref> Ca khúc đã được đổi tên thành "[[Fuck You (bài hát)|Fuck You]]" ở phiên bản album.
 
Ca khúc thứ tư được Allen đăng lên trang MySpace có tên "Who'd of Known", cô chú thích rằng ca khúc này đã được thu âm cho album nhưng sẽ không có mặt do vấn đề về bản quyền, khi phần điệp khúc của bài hát có phần nhạc tương tự với bài hát "[[Shine (bài hát của Take That)|Shine]]" của [[Take That]].<ref name=shine>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/lily-allen/41497|title=Lily Allen: 'I accidentally flashed my breasts at Blur's Damon Albarn'|publisher=[[NME]]|date =2008- ngày 8 tháng 12-08 năm 2008 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref> Tuy nhiên, sau đó Take That đã đồng ý cho Allen phát hành ca khúc cho album (nay tiêu đề ca khúc đã được sửa lỗi ngữ pháp thành "[[Who'd Have Known]]").<ref name=shine/>
 
Ngày 2 tháng 2, Allen đã tải tất cả 12 track từ album này lên trang cá nhân MySpace của mình và cho phép mọi người có thể nghe.
 
==Phát hành==
Tháng 5 năm 2008, Allen nói với tờ ''The Sunday Mirror'' rằng album đã sắp hoàn thành và cô sắp thực hiện một chuyến lưu diễn quy mô lớn.<ref>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/lily-allen/36700|title=Lily Allen close to completing second album|publisher=[[NME]]|date =2008-05- ngày 18 tháng 5 năm 2008 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref> Tháng 8 năm 2008, giải thích về sự chậm trễ của việc phát hành album, Allen đổ lỗi cho công ti thu âm của cô [[EMI]]/[[Parlophone]].<ref>{{chú thích web|url=http://entertainment.timesonline.co.uk/tol/arts_and_entertainment/music/article4568162.ece|title=Lily Allen hits out at EMI over album delay|date =2008-08- ngày 19 tháng 8 năm 2008 |author=Zoe Blackler|publisher=[[The Times|Times Online]]|accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01 |location=Luân Đôn}}</ref> Ngày 15 tháng 9, cố thông báo qua trang blog MySpace của mình rằng album sẽ được phát hành vào ngày 9 tháng 2 năm 2009.<ref>{{chú thích web|url=http://www.gigwise.com/news/48046/Lily-Allen-Amy-Winehouse-Given-Hard-Time-By-Media | title = Lily Allen: 'Amy Winehouse Given Hard Time By Media' | author = Jason Gregory|publisher=Gigwise.com|date =2008- ngày 8 tháng 12-08 năm 2008 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.guardian.co.uk/music/2009/jan/18/lily-allen-album-review|title = Pop review: Lily Allen, It's Not Me, It's You |author=Garry Mulholland|publisher=guardian.co.uk|work=Guardian Media Group|date =2008-01- ngày 18 tháng 1 năm 2008 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.clashmusic.com/reviews/lily-allen|title=CD Album Review: Lily Allen, 'It's Not Me, It's You'|author=Natasha Arico|date =2009-01- ngày 23 tháng 1 năm 2009 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
 
Về tiêu đề của bài hát, tháng 7 năm 2008, tiêu đề của album được xác nhận là ''Stuck on the Naughty Step''.<ref name=naughty/> Ngày 7 tháng 10, tại [[Broadcast Music Incorporated]] Awards, Allen thông báo rằng tựa đề đã được đổi thành ''It's Not Me, It's You'', do "không thích sự dài dòng của tên gốc".<ref name=release/>
Dòng 79:
Ngày 19 tháng 12, những đoạn nhạc mẫu quảng cáo từ 12 track của album đã được gửi đi trên rất nhiều blog và cửa hàng trực tuyến để xem xét nhận xét cho việc phát hành sắp tới của album.
 
Album đã được phát hành dạng số ở Anh ngày 8 tháng 2, ngay trước thời điểm phát hành chính thức dạng đĩa. Ở Anh, ''It's Not Me, It's You'' đã bán được 112.568 bản và ngay lập tức tiến đến vị trí #1. Ở Hoa Kỳ, album đã lọt vào ''Billboard'' 200 ngay ở vị trí số 5 với doanh số 70.000 bản trong tuần đầu tiên.<ref>{{chú thích web|url=http://new.music.yahoo.com/blogs/chart_watch/28645/week-ending-feb-15-2009-taylor-swift-gets-last-laugh/|title=Week Ending Feb. 15, 2009: Taylor Swift Gets Last Laugh|work=Chart Watch|first=Paul|last=Grein|publisher=[[Yahoo! Music]]|date =2009-02- ngày 18 tháng 2 năm 2009 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/bbcom/reviews-album/it-s-not-me-it-s-you-1003939286.story|title=It's Not Me, It's You|author=Mikael Wood|date =2009-02- ngày 14 tháng 2 năm 2009 |work=[[Billboard]]|accessdate =2009-02- ngày 24 tháng 2 năm 2009 |archiveurl=http://web.archive.org/20090213083514/www.billboard.com/bbcom/reviews-album/it-s-not-me-it-s-you-1003939286.story|archivedate =2009-02- ngày 13 tháng 2 năm 2009}}</ref>
 
Tại Pháp, ca khúc có mặt trong French Albums Chart tại #11 với 5.953 bản bán được.<ref>{{chú thích web|url=http://www.ozap.com/actu/disques-superbus-seal-mozart-tatoue-moi/258572|title =Disques: Superbus s'incline face à Seal|language=tiếng Pháp|first=Antoine|last=Masson|work=Ozap|date =2009-02- ngày 18 tháng 2 năm 2009 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref> Ở Canada, nó xuất hiện ngay ở vị trí quán quân trên [[Canadian Albums Chart]] với 8.500 bản bán được. Tại đây, ca khúc đã đạt chứng nhận Vàng với 40.000 bản bán được tính đến tháng 2 năm 2010.<ref>{{chú thích báo|first=Neil|last=McCormick|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/culturecritics/neilmccormick/4317076/Lily-Allen---Its-Not-Me-Its-You-Pop-CD-of-the-week-review.html|title = Lily Allen – It's Not Me, It's You: Pop CD of the week review|work=[[The Daily Telegraph]]|date =2009-01- ngày 22 tháng 1 năm 2009 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
 
==Lưu diễn==
Dòng 94:
* "[[22 (bài hát)|22]]" đã được phát hành làm đĩa đơn chính thức thứ tư của album ngày 14 tháng 7 năm 2009. Trước đó ngày 31 tháng 5, Allen đã khẳng định điều này qua trang [[Twitter]] của cô. Video được phát hành ngày 11 tháng 7 năm 2009.
* "[[Who'd Have Known]]" là đĩa đơn thứ năm (thứ tư ở Anh) và là đĩa đơn chính thức cuối cùng từ album, phát hành 23 tháng 11 năm 2009. Ở Hoa Kỳ, nó được phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009.
* "[[Back to the Start]]": Ca khúc đã được chơi trên nhiều sóng phát thanh ở Úc, xếp hạng trong các bảng xếp hạng đếm ngược mỗi tối và được coi là đĩa đơn thứ năm ở Úc.<ref>{{chú thích web|url=http://www.aumreport.com/Chart_News.html|title=Chart News|work=Australian Music Report|accessdate =2009-12- ngày 26 tháng 12 năm 2009 |archiveurl=http://www.webcitation.org/5mJ5AFT6F|archivedate =2009-12- ngày 26 tháng 12 năm 2009}}</ref> Nó đạt vị trí 21 trên Australian Airplay Chart.<ref>{{chú thích web|url=http://www.aumreport.com/amr100.html|archiveurl=http://www.webcitation.org/5o3D4adtB|archivedate = ngày 7 tháng 3 năm 2010-03-07 |work=Australian Music Report|title=Top 100 singles chart|accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
 
===Bài hát khác===
* "[[Womanizer]]": Ngày 13 tháng 12 năm 2008 Allen tiết lộ cô đã cover đĩa đơn hit Womanizer của [[Britney Spears]]. Khi được hỏi, cô nói rằng cô chỉ thu âm nó với các nhà sản xuất cho vui và "nó thực sự tuyệt vời".<ref name=womanizer>{{chú thích web|url=http://britneyspearsblackout.com/?p=6786|title=Lily Allen cover 'Womanizer' by Britney Spears|publisher=Britney Spears Blackout|date =2008-12- ngày 13 tháng 12 năm 2008 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref> Ca khúc không có mặt trong ''It's Not Me, It's You'' nhưng đã có mặt ở EP ''[[F.U.E.P.]]'' trên iTunes.
* "Everyone's at It" đã được mong làm đĩa đơn đầu tiên từ album nhưng sau đó "The Fear" đã được chọn. Ca khúc đã được phát hành trên radio ở Úc và là đĩa đơn thứ hai ở đây.
* "Chinese": Một ca khúc hợp xướng thể hiện bởi Capital Children's Choir là để dành tặng Allen từ người lập ra dàn hợp xướng này Rachel Santesso, người thầy dạy nhạc – người bạn của Allen năm cô 11 tuổi.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.vancouversun.com/entertainment/UVic+student+helped+create+British+star+Lily+Allen/1758955/story.html|title=UVic student helped create British star Lily Allen|first=Jack|last=Knox|work=The Vancouver Sun|date = ngày 4 tháng 7 năm 2009-07-04}}{{Dead link|date=Tháng 12 năm 2009}}</ref> Đài truyền thanh Nova ở Úc đã chơi ca khúc này.<ref>{{chú thích web|url=http://www.novafm.com.au/nova100/Article_Nova-Playlist-WC-17-03-10_98932?s=161|title=Nova Playlist WC 17/03/10|publisher=Nova|accessdate =2010-03- ngày 30 tháng 3 năm 2010}}</ref>
 
==Danh sách bài hát==
Dòng 219:
! Ngày
|-
| [[Nhật Bản]]<ref>{{chú thích web|url=http://www.cdjapan.co.jp/detailview.html?KEY=TOCP-66860|title=It's Not Me, It's You|work=CDJapan|publisher=Neowing|accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
| {{start date|2009|2|4|df=yes}}
|-
Dòng 301:
|align="center"|8
|-
|European Albums Chart<ref name=billboardalbumdisplay>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/album/lily-allen/it-s-not-me-it-s-you/1208886|title=It's Not Me, It's You - Lily Allen|work=[[Billboard]]|accessdate =2010-10- ngày 24 tháng 10 năm 2010}}</ref>
|align="center"|20
|-
Dòng 340:
|align="center"|6
|-
|[[UK Albums Chart]]<ref name=chartstats>{{chú thích web|url=http://www.chartstats.com/albuminfo.php?id=13869|work=Chart Stats|title= Lily Allen – It's Not Me, It's You|archiveurl=http://archive.is/1wTZo|archivedate = ngày 7 tháng 3 năm 2013-03-07}}</ref>
|align="center"|1
|-
Dòng 364:
|-
|Canada
|align="center"|Vàng<ref>{{chú thích web|url=http://www.cria.ca/goldplat.php|title=Gold & Platinum Certification: February 2010|publisher=Canadian Recording Industry Association|archiveurl=http://www.webcitation.org/5oM3gGm5w|archivedate =2010-03- ngày 19 tháng 3 năm 2010 |accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
|align="center"|40.000+
|-
|Châu Âu
|align="center"|Bạch kim<ref>{{chú thích web|url=http://www.ifpi.org/content/section_news/plat2009.html |title= Certifications Europe 2009; It's Not Me, It's You Platinum|publisher=International Federation of the Phonographic Industry|accessdate = ngày 1 tháng 9 năm 2009-09-01}}</ref>
|align="center"|1.000.000+
|-
|Ireland
|align="center"|2× Bạch kim<ref>{{chú thích web|url=http://www.irishcharts.ie/awards/multi_platinum09.htm |title=2009 Certification Awards, Multi-Platinum|publisher=Irish Recorded Music Association|accessdate = ngày 1 tháng 9 năm 2009-09-01}}</ref>
|align="center"|30.000+
|-
|Pháp
|align="center"|Vàng<ref>{{chú thích web|url=http://proxy.siteo.com.s3.amazonaws.com/disqueenfrance.siteo.com/file/disquesor.pdf |title= Les Disques d'Or 2009; It's Not Me, It's You Gold|publisher=Disque en france|accessdate = ngày 1 tháng 9 năm 2009-09-01}}</ref>
|align="center"|87.900<ref>{{chú thích web|url=http://www.infodisc.fr/Cd_Certif_09.php|title=Les Certifications 2009|work=InfoDisc|language=tiếng Pháp}}</ref>
|-
|New Zealand
|align="center"|Bạch kim<ref>{{chú thích web|url=http://www.radioscope.net.nz/index.php?option=com_content&task=view&id=79&Itemid=61|title=Latest Gold / Platinum Albums|work=Radioscope|archiveurl=http://web.archive.org/20081014104737/www.radioscope.net.nz/index.php?option=com_content&task=view&id=79&Itemid=61|archivedate =2008-10- ngày 14 tháng 10 năm 2008}}</ref>
|align="center"|15.000+
|-
Dòng 398:
!Vị trí
|-
|Australian Albums Chart<ref>{{chú thích web|url=http://www.aria.com.au/pages/aria-charts-end-of-year-charts-top-100-albums-2009.htm|title=Top 100 Albums 2009|publisher=ARIA|accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
|align="center"|5
|-
|Belgian (Wallonia) Albums Chart<ref>{{chú thích web|url=http://www.ultratop.be/fr/annual.asp?year=2009&cat=a|title=Rapports annuels 2009 – Albums|work=Ultratop|accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
|align="center"|71
|-
Dòng 407:
|align="center"|66
|-
|Swiss Albums Chart<ref>{{chú thích web|url=http://swisscharts.com/year.asp?key=2009|title = Swiss Year-End Charts 2009|work=swisscharts.com|accessdate = ngày 1 tháng 7 năm 2010-07-01}}</ref>
|align="center"|50
|-
Dòng 413:
|align="center"|8
|-
|US ''Billboard'' 200<ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/charts-year-end/the-billboard-200?year=2009&begin=141&order=position|title=The Billboard 200|work=[[Billboard]]|accessdate =2009-12- ngày 29 tháng 12 năm 2009 |archiveurl=https://archive.is/ShWD|archivedate = ngày 3 tháng 9 năm 2012-09-03}}</ref>
|align="center"|148
|}
Dòng 447:
[[Thể loại:Album của Lily Allen]]
[[Thể loại:Album 2009]]
[[Thể loại:Album của Capital Records]]
[[Thể loại:Album tiếng Anh]]
[[Thể loại:Album của Parlophone]]