Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ấn Độ giáo”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 116.111.144.154 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Cheers!-bot |
|||
Dòng 4:
== Từ nguyên - Khái niệm "Ấn Độ giáo" ==
Kể từ [[thế kỉ 16]] các nhà truyền giáo và du phương thường nhắc đến tôn giáo và phong tục tại Ấn Độ và thường gọi người bản xứ này là "ngoại đạo" (en. ''pagan'', de. ''Heiden'') nếu họ không tự nhận là theo một trong tôn giáo lớn ([[Ki-tô giáo]], [[Do Thái giáo]] hoặc [[Hồi giáo]]). Họ được gọi theo [[tiếng Latin]] là ''gentiles'', [[tiếng Bồ Đào Nha]] là ''gentio'' và từ đó ra [[tiếng Anh]] là ''gentoo'' và [[tiếng Hà Lan]]/[[tiếng Đức]] là ''Heyden'' (''Heiden''). Đến [[thế kỉ 18]] thì từ "Hindoo" ([[tiếng Ba Tư]] ''Hindu'') bắt đầu được dùng và cuối cùng, trong [[thế kỉ 19]], danh từ "Hinduism" trở nên rất thông dụng. Như vậy thì từ "Hinduism" - được dịch là Ấn Độ giáo ở đây - không phải là một danh hiệu tự xưng của một tôn giáo Ấn Độ. Nhưng tên này lại ảnh hưởng đến quan điểm tự nhận của phong trào Tân Ấn Độ giáo (''Neo-Hinduism'') trong thế kỉ 19 và [[thế kỉ 20]] vì nó gợi ý một sự thống nhất tôn giáo trong cuộc chiến giành độc lập Ấn Độ, và được dùng để phản ứng các khuynh hướng phân chia ngày nay.
Tuy vậy, từ Hinduism có thể gây hiểu lầm. Khi người ta bắt đầu dùng nó thì đã dựa trên hai [[điều kiện tiên quyết]] không đúng. Thứ nhất là người ta tin là từ phái sinh từ gốc Ba Tư ''Hindoo'' (''Hindu'') chỉ tín đồ của ''một'' tôn giáo nhất định. Thứ hai là người ta cho tất cả những người Ấn đều là tín đồ của tôn giáo này nếu họ không theo các tôn giáo lớn còn lại, ví như [[Hồi giáo]], [[Công giáo]], [[Do Thái giáo]], [[Phật giáo]], [[Kì-na giáo]]. Cả hai điều kiện tiên quyết bên trên đều bị nhìn nhận sai. Danh từ Ba Tư "Hindu" chỉ có nghĩa tương đương với từ có gốc Hy Lạp là "Indian", và cả hai đều có gốc từ tên con sông lớn Ấn Độ ([[tiếng Phạn]]: ''sindhu'', tiếng Ba Tư: ''hindu'', [[tiếng Hy Lạp]]: ''Indós''), đã mang đến đất nước nó chảy qua tên này: Hindus là những người xuất xứ từ nước Ấn Độ (''india''). Ngay khi người Hồi giáo nói tiếng Ba Tư đến xâm chiếm, phân biệt giữa tín đồ Hồi giáo và Hindus thì sự việc này cũng không có nghĩa là tất cả những người Hindu đều là tín đồ của ''một'' tôn giáo.
Dòng 20:
==== Nguồn gốc và thánh điển ====
[[Tập tin:The Rig Veda.jpg|nhỏ|225px|phải|Một trang của ''[[Lê-câu-phệ-đà bản tập]]'' (sa. ''ṛgvedasaṃhitā''), ấn bản của nhà Ấn Độ học [[Max Müller]], trình bày hai câu kệ ''Puruṣasūkta'', 10.90, với chú giải của Sāyaṇa]]
Với tư cách là tôn giáo cổ nhất Ấn Độ với thánh điển còn lưu lại, Ấn giáo Phệ-đà (''vedic religion'') giữ một vai trò đặc biệt trong việc nghiên cứu tôn giáo sử của Ấn Độ. Tôn giáo này có nhiều điểm rất giống tôn giáo Cổ Iran và qua tên của các vị thần, người ta có thể thấy được mối quan hệ với tôn giáo La Mã, Hy
==== "Bà-la-môn giáo" và những bước phát triển mới ====
|