Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người bản địa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
Tuy nhiên trên thế giới ''quá trình [[thực dân hóa]]'', đặc biệt là thời kỳ xâm chiếm [[thuộc địa]] của các nước tư bản phát triển, đã để lại những hậu quả nặng nề cho người bản địa, trong đó có những dân tộc bị tuyệt diệt như [[thổ dân Tasmania]] (hay ''[[người Palawa]]'' ở [[Tasmania]]). Các cuộc đấu tranh sinh tồn dẫn đến cuối thế kỷ 20 ra đời các luật đặc biệt để bảo vệ quyền lợi của họ tại các nước có mức [[thực dân hóa]] cao, mà theo đó thì ''người bản địa'' được quan niệm như sau:
:'''Người bản địa''' là những quần thể ''cư dân đặc biệt được bảo vệ theo luật pháp'' quốc tế hoặc quốc gia, là có một tập hợp các quyền cụ thể dựa trên các mối quan hệ lịch sử của họ vào một lãnh thổ đặc biệt, và bản sắc văn hóa, lịch sử của họ từ các quần thể khác<ref>Coates, Ken S. (2004). A Global History of Indigenous Peoples: Struggle and Survival. New York: Palgrave MacMillan. ISBN 0-333-92150-X.</ref>. Các luật được dựa trên kết luận rằng một số người dân bản địa rất dễ bị khai thác, ra bên lề và áp bức bởi các quốc gia được hình thành từ các quần thể thuộc địa hoặc do chi phối chính trị, các nhóm dân tộc khác nhau.
 
Văn bản quốc tế nổi tiếng nhất về người bản địa là ''[[Công ước về Bộ lạc và Dân tộc Bản địa]]'' do [[Tổ chức Lao động quốc tế]] (ILO) đưa ra vào năm 1989, còn được biết đến như ''[http://www.ilo.org/indigenous/Conventions/no169/lang--en/index.htm Công ước ILO 169]'', hoặc dạng viết tắt ''C169''.
 
== Từ nguyên ==