Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Xe tăng Kliment Voroshilov”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa chính tả 2, replaced: Quốc Xã → Quốc xã (2) using AWB
Dòng 94:
'''KV''' là tên một dòng tăng hạng nặng lấy từ tên của nhà chính trị-quân sự nổi tiếng [[Liên Xô]] [[Kliment Yefremovich Voroshilov|Kliment Voroshilov]]. Dòng xe KV phục vụ cho quân đội [[Liên Xô]] từ trước [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]] và là một trong những loại tăng hạng nặng hiếm thấy ở thời điểm bấy giờ.
 
Vào những năm đầu Thế chiến thứ hai, đa phần xe tăng Đức [[Panzer III]] và Panzer IV chỉ được lắp pháo 7.5 cm KwK 37 và 3.7 cm KwK 36 nên dòng KV có thể hạ gục đối thủ một cách dễ dàng từ bất kỳ khoảng cách nào cho đến khi pháo chính của Panzer III-IV được phát triển để có thể hạ gục KV bằng một phát đạn xuyên giáp bắn vào hông. Trong suốt cuộc chiến tranh, có khoảng 4.500 chiếc KV-1 và 350 chiếc KV-2 tham chiến trong hơn 14.000 xe tăng hạng nặng của quân đội Liên Xô.
 
Khi KV-1 bắt đầu tham chiến, nó ngay lập tức trở thành loại tăng hạng nặng mạnh nhất thời bấy giờ, hơn cả loại tăng hạng nặng Char B1 của quân đội Pháp. Về sau, quân đội [[Liên Xô]] thiết kế ra được tăng hạng trung [[Xe tăng T-34|T-34]] vừa rẻ mà vẫn sở hữu sức mạnh chết người nên KV được sử dụng khá hạn chế và chỉ được sử dụng để huấn luyện. Vào những năm cuối chiến tranh, dòng KV được sử dụng để làm nền thiết kế ra loại tăng hạng nặng xuất sắc IS.f6
Dòng 105:
Khi [[Hồng Quân|Quân đội Liên Xô]] bắt đầu cuộc chiến tranh mùa đông với quân [[Phần Lan]], cả ba mẫu bao gồm: SMK-KV-T-100 được gửi đến thực tập ở điều kiện chiến tranh. Lớp giáp bọc nặng của KV đã thể hiện uy lực của nó trước các loại pháo chống tăng của quân đội Phần Lan khiến nó trở nên hữu dụng hơn các bản thiết kế còn lại. Có hai phiên bản KV được đem ra sản xuất đó là KV-1-với tên gọi chính thức là "'''Xe tăng hạng nặng KV-1'''" (trang bị pháo 76 mm) và KV-2-với tên gọi chính thức là "'''Xe tăng hạng nặng KV-2'''" (trang bị lựu pháo 152 mm).
 
Những ưu điểm của KV bao gồm: lớp giáp cực dày của nó không thể nào bị xuyên thủng bởi đa phần các loại pháo chống tăng thời bấy giờ<ref>{{chú thích sách|title=Hitler's panzers east: World War II reinterpreted|pages=158|url=http://books.google.com/books?id=GlVoAnV5u-0C&pg=PA158&dq=KV-1+best+tank&hl=en&ei=8YAkTZmPH46VOrTMmPgC&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=7&ved=0CEIQ6AEwBjgK#v=onepage&q=KV-1%20best%20tank&f=false|author=Russel H. S. Stolfi}}</ref> - trừ khi ở những điểm yếu và ở khoảng cách quá gần, hỏa lực mạnh và sự di chuyển êm của xích trên mặt đất. Nhưng dù sao nó cũng có một số nhược điểm quan trọng: hơi khó để lái, hệ truyền động hoạt động không êm, hệ thống công thái học hoạt động yếu và hầu như không có gàu/lồng tháp pháo<ref>{{chú thích sách|title=Kv-1 & 2: Heavy Tanks 1939-1945|pages=9|url=http://books.google.pl/books?id=5EA5LrwmP2UC&pg=PA10&dq=fastest+heavy+tank&hl=pl&ei=Ez4kTYDMCI3KswbZnJzOAg&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=6&ved=0CDwQ6AEwBQ#v=onepage&q=fastest%20heavy%20tank&f=false|author=Steven Zaloga|coauthors=Steven J. Zaloga}}</ref>. Thêm nữa là trọng lượng 45 tấn là quá nặng so với KV-1. Nó hoạt động cũng như tác chiến không được linh động cho lắm mặc dù hoạt động tối đa công suất của động cơ và còn không thể vượt qua đa số các cây cầu như các loại tăng hạng trung có thể làm được một cách dễ dàng<ref>{{chú thích sách|title=IS-2 Heavy Tank 1944-73|pages=3|url=http://books.google.com/books?id=ZjEIa4hcqE4C&pg=PA3&dq=KV-1+best+tank&hl=en&ei=goAkTaKzIsiEOp_wuZUD&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=3&ved=0CDIQ6AEwAg#v=onepage&q&f=false|author=Steven J. Zaloga|coauthors=Peter Sarson}}</ref>.
 
KV là loại tăng nặng nhất tính đến thời điểm đó và về sau thì Đức cũng có thiết kế một số loại tăng hạng nặng khác còn lớn hơn như [[Tiger I]]. KV không bao giờ được trang bị hệ thống ống lặn để vượt qua sông bằng phần dưới, thế nên nó phải đi qua các loại cầu có đủ khả năng cho nó đi qua. Một vài cải tiến về sau có cố tìm cách nâng cấp động cơ và thêm giáp nhưng KV vẫn không thể đạt được đến tốc độ của các loại xe tăng hạng trung và càng ngày càng gặp nhiều vấn đề khi di chuyển ở các địa hình khác nhau.
 
=== Các thiết kế khác ===
Vào năm [[1942]], người [[Đức]] bắt đầu thiết kế và nâng cấp ra các loại pháo 75&nbsp;mm và 88&nbsp;mm nên giáp của KV không còn sở hữu danh hiệu bất khả chiến bại nữa. Ngay cả đối với các loại máy bay như Henschel Hs 129 trang bị pháo tự động MK 101 cũng có thể xuyên thủng giáp sườn, giáp tháp pháo và đỉnh của KV; điều này chứng tỏ KV cần phải gia cố thêm về lớp giáp.
 
KV cũng chỉ mang được pháo chính 76.2&nbsp;mm, trong khi đó tăng T-34 với trọng lượng nhẹ hơn, tốc độ nhanh hơn và chi phí sản xuất rẻ hơn cũng có thể mang được mà còn thực hiện điều đó rất tốt. Điều này bắt đầu ảnh hưởng đến uy tín của KV khi tác chiến cũng như sản xuất. Vào năm [[1943]], [[Đức Quốc Xã]] bắt đầu cho tăng hạng nặng [[Tiger I]] tham chiến, với sức mạnh của pháo 88&nbsp;mm và giáp dày, KV-1 không còn là đối thủ của Tiger-I nữa - một cuộc thử nghiệm chiếc Tiger bắt được gần Leningrad đã cho thấy pháo chính của KV không thể nào xuyên thủng được giáp của Tiger-I<ref>{{chú thích web|author=Dmitry Pyatakhin|title=The New Generation of Soviet Armor vs. Tigers|url=http://www.achtungpanzer.com/the-new-generation-of-soviet-armor-vs-tigers.htm|accessdate=ngày 3 tháng 1 năm 2011}}</ref>. Ngoài ra nó còn rất khó để sản xuất và đắt hơn T-34 rất nhiều. Các nhược điểm trên đã nhanh chóng đặt ra cho KV nhiều thách thức.
Dòng 116:
Nhưng dù sao, vì thành tích hạ gục được nhiều tăng Đức nên KV vẫn được giữ lại trong đội hình tăng của Liên Xô và vẫn tiếp tục được sản xuất. Trong một cuộc nâng cấp, KV được cho sử dụng động cơ 600&nbsp;hp V-2K-một phiên bản sửa chữa của động cơ tăng T-34 V-2-chạy bằng diesel) và vẫn được trang bị pháo F-34 - trong khi đó T-34 cũng được cho sử dụng cùng loại pháo này.
[[Hình:Kv1 m1942 parola 1.jpg|nhỏ|trái|KV-1 dòng năm 1942, trưng bày tại bảo tàng tăng Phần Lan, Parola.]]
Khi việc sản xuất bắt đầu trở nên khó khăn hơn do Đức Quốc đẩy mạnh các cuộc tiến công bằng máy bay và xe tăng nên các nhà máy sản xuất phải chuyển lên núi Ural, việc sản xuất tăng KV-2 bị bỏ dỡ. Khác với những lời ca ngợi trên sách báo, tăng KV-2 thực ra gặp một số vấn đề nặng liên quan đến phễu chứa dầu. Nó có tính linh động rất kém, khiến nó trở nên lạc hậu dần trong một chiến trường đầy tính cấp tốc như mặt trận phía Đông. Phần tháp pháo có trọng lượng khá nặng, rất khó để quay sang hai bên trong điều kiện địa hình ghồ ghề và chi phí sản xuất rất đắt. Chỉ có khoảng 250 chiếc KV-2 được sản xuất, tất cả đều trong những năm 1940-[[1941]], khiến nó nằm trong danh sách những loại tăng hiếm được sản xuất nhất.
 
Để tiếp tục cuộc chiến tranh bên cạnh tăng T-34, KV-1 tiếp tục được cải tiến phần giáp để trở nên hữu dụng hơn khi đối đầu với các vũ khí chống tăng của quân đội Đức. Bản KV-1 được đặt tên là "'''KV-1 phiên bản năm 1942'''" (người Đức đặt tên cho phiên bản này là "'''KV-1C'''"). Phiên bản KV-1C có giáp bọc rất nặng và dày nhưng thiếu đi một số sửa chữa về phần động cơ. Kíp chiến đấu tăng KV-1C than phiền rằng mặc dù được bảo vệ rất tốt nhưng tăng của họ vẫn thiếu đi sự linh động và uy lực trên chiến trường.
Dòng 128:
=== Thiết kế nối tiếp thành công ===
[[Hình:Destroyed KV1 in Aunus.jpg|nhỏ|Một chiếc KV-1 bị tiêu diệt tại Olonets, tháng 9-năm 1941(trong khuôn khổ chiến tranh tiếp diễn)]]
Một dự án thiết kế tăng mới được dựa trên tăng KV-13 được đưa vào sản xuất vào cuối năm 1943. Bởi vì tăng KV đã bị dừng sản xuất nên một sê-ri tăng hạng nặng mới có tên IS bắt đầu xuất hiện. Dự án KV-13 được đặt tên lại thành tăng hạng nặng IS-1 (hoặc IS-85 hay dự án ''Object 237''). Sau khi thử nghiệm cả hai loại pháo chính 100&nbsp;mm hoặc 122&nbsp;mm, cuối cùng pháo chính D-25T 122&nbsp;mm được lựa chọn làm vũ khí cho tăng IS, các ưu điểm của nó phải được kể đến như độ nổ của đạn lớn và sức xuyên giáp cao. Pháo chính 122mm D-25T sử dụng đạn nổ xuyên giáp và bột nổ loại lớn, nhưng nhược điểm bao gồm tầm bắn thấp và số đạn mang được không nhiều. Trong khi pháo 122mm D-25T có tốc độ đạn không nhanh bằng pháo 7.5&nbsp;cm hoặc pháo 8.8&nbsp;cm của người Đức nhưng sức xuyên của đạn pháo AP có thể xuyên thủng giáp mặt trước của Panther; đạn HE của pháo 122&nbsp;mm có thể thổi tung phần hầm trước bao gồm hệ thống đĩa và phần thân trước của bất cứ loại tăng hay pháo tự hành nặng nhất từ phe Đức Quốc . Dự án tăng hạng nặng mới mang tên IS-122 thay thế cho dự án tăng hạng nặng IS-85 và được đưa ra sản xuất trên diện rộng. Các phiên bản T-34-85 và SU-85 được cho sử dụng pháo chính 85&nbsp;mm thay cho pháo 76.2&nbsp;mm.
 
Một vài chiếc KV còn sót lại trong quá trình sản xuất được sử dụng cho đến hết cuộc chiến nhưng đa phần đều bị bỏ lại hoặc bị bắn nát. Trung đoàn cận vệ hạng nặng số 260 được cho phòng thủ ở mặt trận Leningrad, được giao cho một vài chiếc KV-1 (đến tận mùa hè năm 1944) để bảo vệ thành phố trước khi được trang bị lại số IS-2. Một trung đoàn tăng KV được thấy hoạt động ở Manchuria vào tháng 8-năm 1945; một vài chiếc KV-85 được thấy hoạt động ở Crimea vào mùa hè năm 1944. Quân đội Phần Lan sở hữu hai chiếc KV (được đặt biệt danh là "''Klimi''"), trong hai chiếc KV có một chiếc mẫu 1940 và một chiếc mẫu 1941. Một chiếc KV-2 bị quân đội Đức bắt được vào năm 1945 trong khi chiếc KV-2 đang tác chiến với quân đội Mỹ ở Ruhr.
Dòng 291:
 
== Lược sử hoạt động ==
Khi chiến dịch [[Barbarossa (định hướng)|Barbarossa]] bắt đầu, lực lượng thiết giáp [[Liên Xô]] có trong tay 508 chiếc KV mới<ref>Zaloga & Grandsen 1984:trang 125</ref>. Lớp giáp cực dày của nó không thể nào bị xuyên thủng trừ khi ở những điểm yếu và ở khoảng cách quá gần, hỏa lực mạnh và sự di chuyển êm của xích trên mặt đất. Vì vậy chúng tỏ ra khá mạnh khi đối đầu với những loại tăng nhẹ hơn như Panzer III và Panzer IV, quân đội Đức chỉ có thể dựa vào pháo phòng không FlaK 88&nbsp;mm hoặc lựu pháo với cỡ nòng 105&nbsp;mm trở lên để hạ gục KV.
 
Tuy nhiên, lính tăng Liên Xô trong giai đoạn đầu chiến tranh còn rất thiếu kinh nghiệm chiến đấu do quá trình huấn luyện chưa hoàn tất. "Hầu hết lính lái KV và T-34 chỉ có 3-5 giờ kinh nghiệm lái”, trích báo cáo đơn vị tăng từ ngày 22-16/6/1941. Thêm vào đó, khả năng phối hợp tác chiến chiến thuật lại hiếm khi được nhìn thấy ở cấp độ đại đội và tiểu đoàn. Kết quả là, rất nhiều xe tăng hạng nặng KV bị phá hủy không phải do địch mà do lỗi kỹ thuật và khả năng của kíp chiến đấu thiếu năng lực không biết cách sửa chữa khi xe hư hỏng. Thực tế thống kê cũng chứng minh điều đó, như trong những trận đánh tháng 8/1941, sư đoàn xe tăng hạng nặng số 10 mất 56 trong tổng số 63 chiếc KV, trong đó chỉ có 11 chiếc bị bắn hạ, 11 chiếc mất tích và tới 34 chiếc bị bỏ lại do trục trặc kỹ thuật. Còn tại Sư đoàn tăng 8, 43 trong số 50 chiếc KV bị mất thì chỉ có 13 chiếc bị bắn hạ, 2 chiếc bị sa lầy, 28 chiếc bị bỏ lại do trục trặc kỹ thuật.
 
Tuy vậy, vai trò của KV vẫn rất quan trọng. Trong năm 1941, KV-1 có thể hạ gục bất kỳ xe tăng nào của phát-xít Đức. Đã có rất nhiều chuyện về những chiếc KV-1 đơn độc còn lại ở phía sau quân Đức, tiếp tục chiến đấu trong nhiều ngày gây cho quân Đức những thiệt hại nặng nề. Ví dụ, chỉ một chiếc KV-1 bên cạnh đường gần Ốt-xtrốp (Vùng Ban-tích) đã giam chân cả một quân đoàn xe tăng Đức. Kết quả của trận chiến: 7 xe tăng Đức, một khẩu pháo chống tăng, trọn một khẩu đội pháo cao xạ 88mm, 4 chiếc bọc thép nửa bánh xích “Hanomag”, 12 xe tải bị riêng 1 chiếc KV tiêu diệt. Về sau chiếc KV chỉ bị hạ bởi một khẩu pháo phòng không 88mm của Đức.
 
Nếu nằm trong tay những lính tăng lão luyện, KV thực sự vẫn là một con quái vật. Tiêu biểu như thiếu tá anh hùng [[Zinoviy Kolobanov]] thuộc sư đoàn xe tăng số 1, diệt 22 xe tăng Đức trong một trận đánh hay thiếu tá [[Semyon Konovalov]], lữ đoàn tăng 15, đã bắn hạ 16 xe tăng và 2 xe bọc thép Đức bằng chiếc KV của mình.